Chương 12
Bố tôi gửi thư về. Hai ngày trước Giáng sinh bố tôi sẽ về nhà. Bố tôi nói trong thư rằng mọi chuyện sẽ khác, rằng bố đã thay đổi, rằng bố hy vọng chúng tôi ngoan, nghe lời mẹ, và là những con chiên ngoan đạo, rằng bố tôi sẽ có quà Giáng sinh cho chúng tôi.
Mẹ tôi và tôi ra ga đón bố tôi. Nhà ga luôn náo nhiệt với những người đi và đến, người ta thò đầu ra cửa sổ các toa tàu, khóc, cười, vẫy chào nhau, tàu hỏa thì vừa kéo còi, vừa phát ra những tiếng xình xịch vừa nhả khói lên trời, người ta hỉ mũi ra sân ga, còn đường ray thì kéo ra xa tít, đến Dublin và đến những nơi xa xôi hơn trên thế giới.
Đã gần nửa đêm, nhà ga đã vắng tanh và lạnh lẽo. Một người đàn ông đội mũ của nhân viên nhà ga mời chúng tôi vào đợi ở một nơi ấm hơn. Mẹ tôi nói cám ơn và ông ấy dẫn chúng tôi đến cuối sân ga nơi chúng tôi phải trèo lên một cái thang để tới tháp báo hiệu. Mẹ tôi béo nên trèo lên thang không dễ, vừa trèo mẹ tôi vừa lẩm bẩm:
- Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa.
Chúng tôi đang ở trên cao và trong tháp khá tối chỉ có những chấm đèn màu nhỏ tí nhấp nháy trong bảng báo hiệu. Người đàn ông nói:
- Tôi có thức ăn đây, mời hai mẹ con cô dùng.
Mẹ tôi vội nói:
Ô, không, cám ơn ông, chúng tôi không thể ăn bữa tối của ông được.Người đàn ông nói:
Vợ tôi luôn làm quá nhiều thức ăn cho tôi và nếu tôi ở trên tháp này một tuần thì tôi sẽ không tài nào mà ăn hết được. Công việc nhìn đèn và kéo thanh chắn lên cũng chẳng có gì vất vả lắm.Ông mở nút của một cái bình dẹt và rót cacao từ trong đó ra một cái cốc:
Uống đi cậu bé.Ông ấy đưa cho mẹ tôi một nửa chiếc bánh sandxvich. Mẹ tôi từ chối:
o, không, không được, ông để dành cho bọn trẻ ở nhà đi. Tôi có hai con trai, và cả hai đều đã đi chiến đấu cho vua Anh cả rồi. Một đứa làm nhiệm vụ ở châu Phi còn một đứa thì ở Burma hay một nơi đẫm máu nào đó. Chúng ta đã độc lập khỏi người Anh rồi thế mà lại đi chiến đấu vì họ. Đây, mời cô ăn một miếng bánh.Bảng theo dõi phát ra những tiếng lách cách và người đàn ông ấy nói:
Chuyến tàu mẹ con cò đợi đang đến đấy. Cám ơn ông rất nhiều và chúc ông một Giáng sinh vui vẻ. Chúc Giáng sinh vui vẻ, và Chúc mừng Năm mới. Cô xuống thang cẩn thận nhé. Cậu bé giúp mẹ cháu xuống nhé. Cám ơn ông.Chúng tôi lại đứng đợi trên sân ga trong khi tàu vào ga. Các cửa toa tàu đã mở cả và đã có mấy người đàn ông xách va ly bước xuống sân ga rồi vội vã bước về phía cổng ga. Có tiếng hàng hóa được thả xuống nền ga. Một người đàn ông và hai đứa bé trai đang dỡ những kiện báo và tạp chí xuống.
Không thấy bóng dáng bố tôi đâu cả. Mẹ tôi nói có thể bố tôi ngủ quên trên toa nào đó nhưng tôi biết bố tôi hầu như không ngủ thậm chí ngay cả trên giường của ông ấy. Mẹ tôi bảo có lẽ tàu thủy từ Holyhead đã đến muộn nên bố tôi bị nhỡ tàu hỏa.
Bố không về đâu, mẹ ạ. Bố không nghĩ đến chúng ta đâu. Bố uống say ở Anh rồi. Đừng nói về bố con như vậy.Tôi không nói với mẹ tôi nữa. Tôi không nói với mẹ tôi rằng tôi ước có một người cha giống như người gác trên tháp báo hiệu kia, người đã chia cho tôi và mẹ tôi bữa tối của ông ấy.
Hôm sau bố tôi bước vào cửa nhà chúng tôi. Mấy cái răng cửa ở hàm trên của bố tôi đã biến mất và bố tôi có một vết tím ở dưới mắt trái. Bố tôi nói biển Ailen có sóng lớn và khi ông ấy đứng trên thành tàu ngó xuống biển răng ông ấy rơi ra. Mẹ tôi nói:
Không phải do nốc rượu say rồi đánh nhau đấy chứ? Chao ôi, không phải, không phải đâu, Angela.Michael nói:
Bố bảo bố có gì đó cho chúng con, đúng không bố? Ồ, có đây.Bố tôi lôi trong va ly ra một hộp sôcôla và đưa cho mẹ.
Mẹ tôi mở hộp ra và chìa cho chúng tôi xem hộp sôcôla chỉ còn một nửa.
Mẹ tôi đậy nắp hộp lại và để nó lên bệ bếp. Mẹ tôi bảo sau bữa tối Giáng sinh ngày mai chúng tôi mới được ăn.
Mẹ tôi hỏi bố tôi rằng bố có mang tiền về không. Bố tôi bảo ở đó đang khó khăn, ít việc, nghe bố tôi nói thế mẹ tôi bảo:
Anh lừa tôi chứ gì? Đang có chiến tranh và ở Anh chẳng có gì khác ngoài đầy rẫy việc làm. Anh uống hết tiền, đúng không? Bố uống hết tiền rồi. Bố uống hết tiền rồi. Bố uống hết tiền rồi.Chúng tôi gào to đến nỗi Alphie sợ bắt đầu khóc. Bố tôi bảo:
Ôi, các con, thôi nào. Phải tôn trọng bố các con một tí chứ.Bố tôi đội mũ lên đầu. Bố tôi phải đi gặp ai đó. Mẹ tôi dặn bố:
Đi gặp ai thì đi nhưng đừng có uống say rồi đêm về nhà hát linh tinh khua bọn trẻ dậy.Đêm bố tôi về nhà, say bét nhưng bố tôi không hát mà nằm lăn ra đất ngay dưới chân giường mẹ tôi ngủ như chết.
Hôm sau chúng tôi được ăn bữa Giáng sinh nhờ phiếu mua thực phẩm mẹ tôi xin được ở hội thánh Vincent de Paul. Chúng tôi có món đầu cừu, khoai tây tẩm bột, và một chai rượu táo. Bố tôi bảo rằng bố tôi không đói, bố tôi uống trà, và vay mẹ tôi một điếu thuốc. Mẹ tôi bảo:
Ăn chút gì đi. Hôm nay là Giáng sinh mà.Bố tôi bảo với mẹ tôi rằng bố không đói nhưng nếu không ai muôn ăn mắt cừu thì bố sẽ ăn. Bố tôi nói mắt cừu chứa nhiều dinh dưỡng. Bố tôi nhúng hai cái mắt cừu đã hầm vào trà và tiếp tục hút nốt điếu thuốc dở. ăn mắt cừu và uống trà xong bố tôi đội mũ vào và đi lên gác lấy va ly xuống.
Anh đi đâu? - mẹ tôi hỏi. London. Ngay hôm nay ư? Giữa Giáng sinh ư? Càng dễ đi chứ sao. Những người đi xe hơi sẽ sẵn sàng cho tôi đi nhờ đến Dublin. Anh không có một xu dính túi thì làm thế nào đi tàu đến Holyhead được? Thì giống như lúc tôi về thôi. Lúc người ta không để ý thì trốn lên tàu.Bố tôi hôn từng đứa chúng tôi, bảo chúng tôi phải ngoan, phải nghe lời mẹ, phải nhớ cầu nguyện. Bố tôi bảo với mẹ tôi rằng bố tôi sẽ viết thư về và mẹ tôi nói:
Ô, giống như trước.Bố tôi xách va ly đứng trước mặt mẹ tôi một lát không nói năng gì. Mẹ tôi quay vào lấy hộp sôcôla ra chia cho tất cả chúng tôi. Mẹ tôi bỏ một chiếc vào miệng để rồi lại lè ngay ra vì nó cứng quá mẹ tôi không nhai được. Tôi được cái mềm hơn và tôi đổi nó lấy cái kẹo cứng vì như thế tôi sẽ ăn được lâu hơn. Chiếc kẹo béo ngậy và có cả nhân hạt điều. Malachy và Michael kêu ca rằng kẹo của chúng không có nhân và càu nhàu rằng tại sao tôi luôn được kẹo có nhân. Mẹ tôi nói: “Các con muốn nói gì, luôn luôn nghĩa là sao? Giờ chúng ta mới có một hộp sôcôla là một, luôn luôn nghĩa là sao?”.
Malachy nói:
Ở trường anh ấy vớ được nho khô và bọn nó nói anh ấy đã đem cho Paddy Clohessy, vậy tại sao anh ấy không cho chúng con nhân hạt điều chứ?Mẹ tôi nói:
Vì hôm nay là Giáng sinh và vì anh ấy đau mắt mà hạt điều lại tốt cho mắt.Michael nói:
Nó sẽ làm cho mắt anh ấy nhìn rõ hơn chứ? Đúng thế.-Nó sẽ làm cho một mắt sáng hơn thôi hay cả hai hả mẹ?
Cả hai.Malachy nói:
Nếu con vớ được cái kẹo có hạt điều con sẽ cho anh ấy ăn để mắt anh ấy không bị mù.Mẹ tôi nói:
Ừ, mẹ biết con sẽ làm như vậy.Bố tôi nhìn chúng tôi ăn sôcôla một lát rồi bố mở cửa bước ra ngoài.
Mẹ tôi nói với cô Bridey rằng ngày đã tệ rồi nhưng đêm còn tệ hơn và phàn nàn với cô ấy rằng không biết bao giờ mưa mới tạnh. Mẹ tôi cố quên những ngày tồi tệ bằng cách nằm lì trên giường, vừa bẻ bánh mì đút cho Alphie ăn vừa ấn cốc nước vào miệng nó để mặc tôi và Malachy nhóm bếp. Chúng tôi phải xuống dưới nhà để rửa mặt trong cái chậu dưới vòi nước và phải cố hong khô áo sơ mi ẩm xì phơi trên vai ghế của mình. Mẹ tôi bắt chúng tôi đến đứng cạnh giường mẹ để mẹ kiểm tra xem chúng tôi đã kỳ hết những ngấn ghét ở cổ hay chưa và nếu cổ chúng tôi còn ghét thì chúng tôi lại phải xuống vòi nước kỳ lại. Khi phát hiện thấy một chỗ thủng trên quần chúng tôi mẹ tôi ngồi dậy tìm mụn vải vá chỗ thủng lại. Mười ba mười bốn tuổi chúng tôi vẫn phải mặc quần soóc còn tất dài của chúng tôi thì luôn có những chỗ thủng cần mạng lại. Nếu mẹ tôi không có len để mạng tất cho chúng tôi và nêu tất của chúng tôi màu đen thì chúng tôi có thể nhuộm đen gót chân mình bằng xi đánh giày. Để người ta biết mình đi tất thủng thì ngượng lắm. Khi chúng tôi cứ đi những đôi tất thủng ấy tuần này qua tuần khác các chỗ thủng mỗi ngày một to đến nỗi chúng tôi phải kéo chỗ tất thủng về phía ngón chân và gấp vợi xuống lòng bàn chân để đi giày vào giấu chỗ thủng đi. Vào những ngày mưa tất của chúng tôi ướt sũng và chúng tôi phải đem tất vào bếp hơ qua đêm với hy vọng sáng ra chúng sẽ khô. Hơ như thế những đôi tất cứng lại và chúng tôi sợ khi chúng tôi xỏ tất vào chân tất của chúng tôi sẽ vỡ vụn ra thành từng mảnh ngay trước mắt chúng tôi. Phải may lắm chúng mới không vỡ ra như thế nhưng chúng tôi còn phải che những chỗ thủng trên giày của mình nữa và tôi tranh giành với em tôi, Malachy, từng mảnh bìa hay mảnh báo chúng tôi có trong nhà. Michael mới sáu tuổi và nó phải đợi chúng tôi tranh nhau xong hết còn gì mới đến lượt nó trừ khi mẹ tôi nằm trên giường quát xuống bắt chúng tôi phải giúp Michael vì nó bé hơn. Mẹ tôi nói:
- Nếu hai đứa không vá giày cho em thì mẹ sẽ xuống cho mỗi đứa một trận bây giờ.
Bạn không thể không cảm thấy tội cho Michael vì làm bạn chơi của Alphie thì nó quá lớn còn làm bạn chơi với chúng tôi thì nó quá nhỏ và nó không thể tranh giành với ai trong ba chúng tôi cũng vì lý do đó.
Việc mặc quần áo thì dễ hơn nhiều, áo tôi mặc đi ngủ là áo tôi mặc đi học. Tôi mặc nó suốt. Nó là áo đá bóng, áo trèo tường, áo trộm quả. Tôi mặc nó đi lễ Mixa và lễ Ban thánh thể và những người đứng gần khịt mũi bỏ ra đứng chỗ khác. Nếu mẹ tôi kiếm được phiếu mua áo mới từ hội thánh Vincent de Paul thì chiếc áo cũ lại được tận dụng làm khăn tắm và được vắt ở vai ghế trong tình trạng ẩm ướt hết ngày này qua ngày khác hoặc là được mẹ tôi cắt ra làm mụn để vá những chiếc áo khác. Có khi mẹ tôi dùng nó cắt lại thành áo cho Alphie mặc một thời gian trước khi cuộn nó lại nhét xuống dưới khe cửa để ngăn không cho nước từ ngõ tràn vào nhà trong những ngày có mưa lớn.
Chúng tôi đi đến trường bằng các lối tắt xuyên qua các ngõ để khỏi phải gặp những đứa con trai nhà giàu học ở trường Christian Brother và ở trường tu dòng Tên, hay ở trường Crescent. Những đứa con trai học ở trường Christian Brother mặc áo khoác may bằng vải tuýt, áo len dày, sơ mi cổ cứng, đeo cà vạt và đi giày bóng loáng. Anh em tôi biết những đứa ấy sau này sẽ làm công chức và sẽ làm việc với những ông to. Những đứa ở trường Crescent mặc đồng phục của trường và đeo một chiếc khăn quanh cổ để chứng tỏ chúng là con nhà có vai vế. Chúng để tóc dài xõa xuống mắt để chúng có thể đưa tay hất tóc như người Anh. Chúng tôi biết những đứa con trai đó lớn lên sẽ vào học ở các trường đại học, sẽ tiếp quản việc kinh doanh của gia đình, sẽ làm trong Chính phủ, sẽ điều hành thế giới. Chúng tôi sẽ chỉ trở thành những anh chàng đưa hàng cưỡi xe đạp đi giao hàng khắp các ngõ hoặc sẽ đi Anh làm thuê trên những công trường xây dựng mà thôi. Chúng tôi biết sẽ như thế. Chúng tôi xấu hổ với vẻ ngoài của mình và nêu những đứa con trai ở các trường dành cho con nhà giàu kia mà chế nhạo chúng tôi thì thế nào chúng tôi cũng lao vào đả nhau với bọn chúng và chúng tôi sẽ lại về nhà với những cái mũi chảy máu và quần áo rách tơi tả. Các giáo viên của chúng tôi sẽ không kiên nhẫn với chúng tôi chút nào và cũng chẳng dành chút cảm thông nào cho những trận ẩu đả đó của chúng tôi bởi con họ đều học ở những trường dành cho con nhà giàu và họ sẽ nói: “Các cậu không có quyền với tay đến tầng lớp cao hơn vậy nên chớ có làm thế”.
Bạn sẽ không bao giờ biết được khi nào bạn về nhà thấy mẹ bạn đang ngồi bên bếp nói chuyện với một người đàn bà và một đứa trẻ lạ. Luôn luôn là một người đàn bà và một đứa trẻ. Mẹ tôi thấy họ lang thang trên phố và nếu họ hỏi: “Xin bà bớt cho đứa bé tội nghiệp này một xu, được không bà?”. Mẹ tôi sẽ mủi lòng ngay. Mẹ tôi chẳng bao giờ có tiền vậy nên mẹ tôi mời họ về nhà uống trà và chia cho họ ít bánh mì của chúng tôi và nếu thời tiết xấu thì mẹ tôi mời người ta ngủ lại và xếp quần áo cũ vào góc nhà làm chỗ ngủ cho người ta. Mẹ tôi cho họ bánh có nghĩa là miếng bánh của anh em tôi sẽ bé đi và nếu chúng tôi kêu ca thì mẹ tôi lại bảo trên đời còn có nhiều người khổ hơn mình và chắc chắn chúng tôi có thể chia sẻ cho họ một chút những gì chúng tôi có.
Michael cũng chẳng khác gì mẹ tôi. Nó đưa về nhà những con chó hoang và những ông già lang thang. Có những con chó lở loét đầy người, có những con chó không có tai hoặc đuôi. Một hôm Michael tìm thấy một con chó săn bị trẻ con đuổi đánh trong công viên. Nó đánh nhau với bọn trẻ đó, và ôm con chó to hơn cả người nó về nhà và nó bảo mẹ tôi rằng nó muốn nhường bữa tối của nó cho con chó. Mẹ tôi bảo:
Bữa tối nào? May ra thì chúng ta còn một mẩu bánh mì.Michael bảo rằng con chó có thể ăn phần bánh mì của nó. Mẹ tôi bảo chỉ cho con chó ở lại một đêm thôi sáng ra là phải đuổi nó đi ngay và thế là Michael khóc cả đêm và đến sáng khi nó thấy con chó đã chết bên cạnh nó, nó càng khóc dữ hơn. Nó không chịu đi học mà cứ khăng khăng đòi ở nhà đào mộ ở chỗ chuồng ngựa cũ để chôn con chó và nó muốn tất cả chúng tôi phải ở nhà đưa tang và cầu nguyện cho con chó với nó. Malachy bảo Michael:
Cầu nguyện cho con chó thì có ích gì, làm sao mày biết nó có theo đạo Thiên Chúa như chúng ta hay không?Michael nói:
Dĩ nhiên nó là một con chó theo đạo Thiên Chúa rồi. Em bế nó em biết mà.Michael khóc con chó ghê quá đến nỗi mẹ tôi phải để cho chúng tôi nghỉ học. Chúng tôi thích đến nỗi chẳng kêu ca khi phải giúp Michael đào mộ và cầu kinh cho con chó. Chúng tôi đâu có định đứng đó mãi lãng phí cả một ngày không phải đi học để cầu kinh cho một con chó săn đã chết. Michael mới có sáu tuổi nhưng khi nó đưa những ông già lang thang về nhà nó cô nhóm lửa và pha trà cho họ. Mẹ tôi bảo rằng mỗi lần về nhà thấy những ông già lang thang ngồi uống trà bằng những chiếc cốc mẹ thích là mẹ tôi muốn phát điên lên được. Mẹ tôi kể với cô Bridey rằng Michael có thói quen đưa những ông già lang thang về nhà và nếu nhà không còn bánh mì thì nó chẳng ngại ngần đi gõ cửa hàng xóm xin bánh cho họ. Cuối cùng mẹ tôi bảo Michael:
- Không ông già nào nữa đâu đấy. Họ mang chấy đến nhà ta, khó chịu lắm.
Lũ chấy rất đáng ghét, đáng ghét hơn cả lũ chuột. Chúng ở trên đầu chúng tôi, trên tai chúng tôi và chúng ngồi trên những chỗ hõm ở cổ chúng tôi nữa. Chúng đào xuống da chúng tôi. Chúng chui vào những đường may ở quần áo chúng tôi và chúng có ở mọi chỗ trong những chiếc áo cũ chúng tôi dùng làm chăn đắp. Chúng tôi phải kiểm tra từng xăng ti một trên người Alphie bởi vì nó còn bé chưa biết đấu tranh với lũ chấy.
Lũ chấy tệ hơn cả lũ bọ chét. Lũ chấy chổng đít lên mà hút máu và nhìn chúng là chúng tôi có thể thấy rõ máu của chúng tôi đã bị cướp trắng trợn như thế nào. Bọ chét thì nhảy và cắn, chúng sạch sẽ và chúng tôi thích chúng hơn. Những con nhảy nhảy sạch hơn những con cứ cắm đầu xuống.
Tất cả chúng tôi cùng đồng ý rằng sẽ không ai đưa về nhà đàn bà và trẻ con lang thang nữa và sẽ không ai mang về những ông già và những con chó lang thang nữa. Chúng tôi không muốn mắc thêm chứng bệnh nào nữa cũng không muốn bị con gì hành hạ nữa.
Michael khóc.
*
Bà hàng xóm của bà ngoại tôi, bà Purcell, có một cái đài. Chính phủ tặng bà ấy cái đài đó bởi vì bà ấy già cả và mù lòa. Tôi muốn có một cái đài. Bà tôi già nhưng bà không bị mù và có một người bà không mù không được Chính phủ tặng đài thì còn nói chuyện gì chứ?
Các tối thứ Bảy tôi ngồi ở vỉa hè dưới cửa sổ nhà bà Purcell nghe kịch do đài BBC, đài Eireann, và đài tiếng nói Ailen phát. Bạn có thể nghe các vở kịch của O’Casey, Shaw, Ibsen, và cả kịch của Shakespeare nữa, những vở hay nhất, cho dù ông ấy là người Anh. Kịch của Shakespeare giống như món cháo khoai tây vậy, bạn ăn rồi lại muốn ăn nữa chẳng bao giờ thấy chán cả. Và bạn có thể nghe cả một vở kịch lạ lùng kể về những người Hy Lạp đã móc mắt vì lấy lầm chính mẹ đẻ của họ.
Một buổi tối tôi đang ngồi dưới cửa sổ nhà bà Purcell nghe vở Macbeth thì cô con gái bà Purcell thò đầu ra ngoài cửa gọi:
Frankie, vào đây. Mẹ cô bảo cháu cứ ngồi đấy mãi thì sẽ bị lao phổi mất đấy. Ô, không sao đâu, thưa cô Kathleen. Cháu không sao đâu thật mà. Vào đi mà. Vào đi.Họ đưa cho tôi một tách trà và một miếng bánh to có phết mứt dâu. Bà Purcell nói:
Cháu thích Shakespeare lắm phải không, Frankie? Cháu yêu Shakespeare, thưa bà. Ô, ông ấy rất tuyệt, Frankie ạ, ông ấy có những câu chuyện hay nhất trên đời. Không có Shakespeare thì bà không biết phải làm gì vào những tối thứ Bảy cháu ạ.Khi vở kịch kết thúc bà ấy để tôi sờ vào cái nút chỉnh sóng và tôi vặn đi vặn lại cái nút đó nghe những tiếng nói nhỏ tí và những tiếng ríu ríu và những tiếng rè rè. Tôi nghe thấy tiếng măngđôlin, tiếng ghita, tiếng kèn túi Tây Ban Nha, tiếng trống châu Phi, tiếng than thở của những người chèo thuyền trên sông Nile. Tôi thấy những thủy thủ ngồi gác đêm với những ly cacao nóng trên tay. Tôi thấy những nhà thờ, những tòa nhà chọc trời, những mái nhà tranh. Tôi thấy những người Arập du cư ở Sahara và những chàng cao bồi trên những đồng cỏ nước Mỹ. Tôi thấy những con dê nhảy trên những bờ biển lô nhô vách đá ở Hy Lạp, nơi những người chăn dê bị mù vì lấy lầm phải mẹ đẻ của mình. Tôi thấy người ta ngồi tán gẫu trong những tiệm cà phê, uống rượu vang, đi tản bộ trên những đại lộ. Tôi thấy những người phụ nữ đứng tựa cửa, những thầy tu tụng kinh, thấy tháp đồng hồ Big Ben, và thấy tiếng phát thanh viên nói: “Đây là đài phát thanh BBC. Xin mời các bạn nghe bản tin”.
Bà Purcell nói:
- Nghe cái đó đi, Frankie, để xem tình hình thế giới thế nào nào.
Sau bản tin chúng tôi nghe chương trình của đài Mỹ và thật tuyệt khi được nghe giọng Mỹ thoải mái và lại còn nhạc nữa, nhạc của Duke Ellington, dường như đích thân người này bảo tôi đáp tàu đi đến nơi Billie Holiday hát cho riêng tôi nghe:
Tôi không thể cho em thứ gì ngoài tình yêu, em ơi.
Đó là thứ duy nhất tôi có thừa, em ạ.
Ôi, Billie, Billie, tôi muốn đến nước Mỹ với anh và đến với âm nhạc của anh, đến cái nơi không ai bị sâu răng, nơi người ta bỏ lại thức ăn trên đĩa của họ, nơi mọi gia đình đều có nhà vệ sinh riêng, nơi mọi người sống hạnh phúc đến trọn đời.
Rồi bà Purcell hỏi:
Cháu có biết điều đó không, Frankie? Điều gì ạ? Rằng Shakespeare tuyệt như thế chắc chắn ông ấy phải là người Ailen.Người thu tiền thuê nhà không còn kiên nhẫn với chúng tôi nữa. Ông ấy nói với mẹ tôi: - Chậm hai tuần rồi đấy. Một bảng và hai shilling. Tôi sẽ về văn phòng gặp ông Vincent Nash thông báo rằng bà nợ một tháng tiền nhà. Tôi sẽ thế nào đây chứ? Tôi còn phải nuôi mẹ già hơn chín mươi tuổi. Người thu tiền thuê nhà phải thu được tiền nếu không anh ta sẽ mất việc. Tuần sau tôi sẽ quay lại và nếu bà không có tiền, không có đủ một bảng tám shilling và sáu xu thì bà sẽ phải ra vỉa hè mà ở đấy.
Mẹ tôi đi lên gác và ngồi bên bếp đăm chiêu không biết nhờ Chúa bà sẽ lấy đâu ra số tiền thuê nhà một tuần nói gì đến số tiền còn khất lại. Mẹ tôi muốn một tách trà nhưng chẳng có cách nào đun được nước cho tới khi Malachy dỡ được một tấm ván ngăn giữa hai phòng trên gác. Mẹ tôi nói:
Được rồi, giờ chúng ta chẻ nó ra đun.Chúng tôi đun một ấm nước và để dành chỗ củi còn lại cho bữa trà sáng nhưng còn tối nay và ngày mai và sau đó nữa thì sao? Mẹ tôi nói:
Sẽ dỡ một tấm ván nữa, một tấm nữa. Mẹ tôi bảo chỗ ván còn lại đủ cho hai tuần, sau đó thì chẳng còn gì ngoài xà nhà. Mẹ tôi cảnh cáo chúng tôi không được đụng tới cái xà đó bởi xà nhà là vật đỡ mái nhà và cả ngôi nhà. Ồ, chúng con sẽ không động vào xà nhà đâu.Mẹ tôi đi gặp bà tôi và ở trong nhà chúng tôi lạnh đến nỗi tôi không chịu được bèn đi kiếm một cái rìu nhỏ và tìm đến một cái xà nhà. Malachy cổ vũ tôi, Michael vỗ tay khuyến khích tôi. Tôi bổ và giật cái xà ra, trần nhà kêu răng rắc và bụi, ngói, mưa thi nhau đổ xuống giường của mẹ tôi. Malachy hét lên, - Ôi, Chúa ơi, tất cả chúng ta sẽ bị giết chết hết, còn Michael thì vừa nhảy múa vừa hát, -Frankie, tình tình, Frankie phá nhà rồi, Frankie phá nhà rồi.
Chúng tôi chạy băng qua mưa tìm mẹ tôi để nói cho mẹ tôi biết về sự cố ở nhà. Mẹ tôi thấy Michael cứ hát đi hát lại “Frankie phá nhà” mà chẳng hiểu mô tê gì thế là tôi đành tự giải thích với mẹ tôi rằng có một lỗ thủng trên trần nhà và mọi thứ đang rơi xuống. Mẹ tôi hoảng hốt chạy về nhà và bà tôi cũng luống cuống chạy theo.
Mẹ tôi nhìn thấy cái giường mẹ tôi vẫn nằm đã bị vùi dưới một đống ngói bụi và gào lên:
Chúng ta biết làm gì bây giờ đây?Rồi mẹ tôi mắng tôi vì tội đã động đến cái xà nhà. Bà tôi nói:
Tôi phải đến văn phòng nhà đất bảo họ đến sửa trước khi mẹ con chị chết đuối hết.Rồi bà tôi quay lại cùng với người thu tiền thuê nhà. Ông ấy hỏi:
Chúa ơi, còn một phòng nữa đâu?Bà tôi hỏi lại:
Phòng nào? Tôi cho thuê hai phòng kia mà, một phòng nữa đâu rồi? Phòng nữa đâu rồi?Mẹ tôi hỏi:
Phòng nào? Ớ trên gác này có hai phòng thế mà bây giờ chỉ có một. Bức tường đâu? Có một bức tường ở đây cơ mà. Bây giờ chẳng còn tường tiếc gì hết. Tôi nhớ rõ là có một bức tường mà. Bức tường đó đâu rồi? Phòng nữa đâu rồi?Bà tôi nói:
Tôi không nhớ là có một bức tường và nếu tôi không nhớ là có một bức tường thì làm sao tôi nhớ được là có một phòng nữa ở đây chứ? Bà không nhớ thật à? Nhưng tôi nhớ. Bốn mươi năm tôi làm trong văn phòng nhà đất và tôi chưa từng thấy cảnh này bao giờ. Ôi, Chúa ơi đây đúng là một trường hợp đáng ngại và Người không thể quay lưng nhưng người thuê nhà đã không trả tiền thuê thì chớ lại còn làm cả tường và phòng biến mất. Tôi muốn biết bức tường biến đâu rồi và muốn biết các người đã làm gì với cái phòng đó.Mẹ tôi quay sang chúng tôi:
Có đứa nào nhớ là có bức tường đó không?Michael giật tay mẹ tôi:
Đó là cái tường chúng ta đã dỡ nó ra để đun chứ gì?Người thu tiền nhà nói:
Lạy Chúa lòng lành, thế này thì quá lắm quá lắm. Tôi biết ăn nói thế nào với ông Vincent Nash ở văn phòng đây? Biến khỏi đây, hãy cuốn xéo đi, tôi đuổi các người. Đúng một tuần kể từ hôm nay tôi sẽ đến gõ cửa căn nhà này và tôi muốn lúc ấy không còn ai ở đây nữa, cuốn xéo khỏi đây đi. Nghe rõ chưa, bà trẻ?Mặt mẹ tôi đanh lại rồi mẹ tôi bảo người đàn ông:
Tiếc là các ông không sống dưới cái thời người Anh đuổi dân Ailen chúng ta ra đường. Đừng có mở miệng nói lung tung nữa, bà trẻ, nếu không tôi sẽ bảo người đến đuổi bà ra khỏi đây ngay bây giờ đấy.Ông ta đi ra cửa và không thèm đóng cửa lại để chúng tôi biết ông ta nghĩ gì về chúng tôi. Mẹ tôi rên rỉ:
Lạy Chúa, tôi không biết sẽ phải làm gì đây.Bà tôi bảo mẹ tôi:
Tôi không có phòng cho mẹ con chị nhưng anh họ của chị, Gerard Griffin, sống ở đường Rosbrien trong ngôi nhà của bà mẹ cậu ta để lại có thể cho mẹ con chị ở nhờ một thời gian. Tôi sẽ đi hỏi cậu ấy. Hãy cho Frank đi cùng tôi.Bà tôi bảo tôi mặc áo khoác vào nhưng tôi không có áo và bà tôi bực mình nói:
Bảo nó mang ô theo chắc cũng chỉ phí lời thôi. Đi nào.Bà tôi chùm khăn lên đầu và tôi theo bà ra cửa, đội mưa đến đường Rosbrien cách đó hai dặm. Đến một ngôi nhà xây theo kiểu nhà ở nông thôn rồi bà tôi gõ cửa:
Cậu có trong đó không, Laman? Tôi biết cậu ở trong đó mà. Mở cửa cho tôi nào. Bà, sao bà lại gọi bác ấy là Laman? Bác ấy tên là Gerard cơ mà? Làm sao bà biết được? Bà biết tại sao người ta gọi bác của mày là Pat Ab chắc? Ai cũng gọi cậu ta là Laman. Mở cửa nào. Chúng tôi vào đấy. Có lẽ cậu ta ngủ say quá.Bà tôi đẩy cánh cửa. Trong nhà rất tối và có một mùi ẩm mốc xộc vào mũi tôi. Phòng này giống như nhà bếp và cạnh nó còn có một phòng nhỏ nữa. Có một cái gác xép ở bên trên phòng ngủ và ánh sáng ngoài trời hắt vào qua tấm kính chắn mưa của cái gác xép đó. Khắp nhà chỗ nào cũng có những cái hộp, những tờ báo, những cuốn tạp chí, vài mẩu thức ăn thừa, cốc chén, và những cái lon rỗng không. Tôi có thể nhìn thấy hai chiếc giường trong phòng ngủ, một chiếc giường to và một chiếc nhỏ hơn kê sát cửa sổ. Bà tôi lay lay cái đầu trên giường lớn:
Laman, dậy đi, dậy đi nào. Gì thế? Gì thế? Gì thế? Có rắc rối. Angela và bọn trẻ nhà nó bị đuổi ra đường vì thiếu tiền thuê nhà. Mẹ con nó cần một chỗ ở tạm mà tôi thì không còn thừa phòng. Cậu có thể cho bọn nó ở nhờ trên gác xép cũng được chỉ tội bọn trẻ còn bé leo lên leo xuống nhỡ ngã thì khổ vậy cậu chịu khó lên gác xép ở cho mẹ con nó ở nhờ dưới này đi. Được thôi, được thôi, được thôi.Bác Laman chống tay nhỏm dậy và tôi phát hiện ra ngay mùi whisky từ người bác ấy. Bác ấy đi vào bếp và kéo chiếc bàn lại sát tường để trèo lên gác xép. Bà tôi bảo:
Thế là ổn rồi, mấy mẹ con có thể chuyển đến đây ngay tối nay và từ giờ sẽ không có lão thu tiền thuê nào đến quấy rầy nhà mày nữa.Bà tôi bảo với mẹ tôi rằng bà muốn về nhà. Bà mệt rồi vì bà đâu còn trẻ nữa. Bà tôi bảo chúng tôi không cần phải mang giường hay đồ đạc gì đến nơi ở mới nữa vì bác Laman đã có đủ các thứ rồi. Chúng tôi để Alphie ngồi vào xe nôi và chất quanh nó nào là chai lọ, ấm, cốc chén, ảnh Giáo hoàng, hai cái gối và mấy cái áo khoác cũ. Chúng tôi chùm áo lên đầu và đẩy xe qua các phô đến nhà bác Laman. Mẹ tôi bảo chúng tôi phải tuyệt đối im lặng khi đi qua ngõ để người trong ngõ không biết chúng tôi bị đuổi khỏi nhà nếu không sẽ rất xấu hổ. Chiếc xe tộ quá cứ lắc qua lắc lại và phải cô lắm chúng tôi mới khiến nó đi thẳng được. Chúng tôi sẽ được vui vẻ ở đây vì giờ đã quá nửa đêm rồi nên chắc chắn sáng mai mẹ tôi không bắt chúng tôi đi học. Chúng tôi đang chuyển đến một nơi cách xa trường Leamy và có lẽ chúng tôi sẽ không bao giờ phải đi học nữa cũng nên. Khi chúng tôi đi được một đoạn khá xa Alphie bắt đầu gõ chai lọ còn Michael thì nghêu ngao hát một bài hát nó nghe được từ một bộ phim với một câu lặp lại:
Tôi yêu em biết nhường nào,
Tôi yêu em biết nhường nào,
Nó làm chúng tôi phì cười trước cái cách nó bắt chước giọng trầm của AI Jolson.
Mẹ tôi bảo mẹ tôi mừng vì trời tối nên không ai nhìn thấy chúng tôi ra đi vì thế mẹ tôi cảm thấy đỡ xấu hổ.
Đến nhà bác Laman chúng tôi bế Alphie xuống khỏi xe và dỡ các thứ xuống để tôi và Malachy lấy xe quay lại ngõ Roden chở nốt cái hòm. Mẹ tôi nói nếu chúng tôi để mất cái hòm đó thì mẹ tôi sẽ không sống nổi.
Malachy và tôi mỗi đứa nằm ở một đầu của cái giường nhỏ. Mẹ tôi nằm ở giường to với Alphie và Michael. Trong nhà ẩm quá còn bác Laman thì gáy khò khò ngay trên đầu chúng tôi. Nhà này chẳng có bậc thang nào và như thế có nghĩa là chẳng bao giờ có chuyện thiên thần trên bậc thang thứ bảy hết.
Trời vẫn còn tối mà chuông báo thức đã réo inh cả lên và tiếp đó là tiếng ho và tiếng khạc nhổ liên tiếp của bác Laman. Ván lót sàn gác xép phát ra những tiếng cọt kẹt và tiếng bác Laman đi tiểu vào bô kéo dài đến nỗi chúng tôi phải ấn áo vào mồm để khỏi cười thành tiếng. Bác Laman lẩm bẩm gì đó rồi trèo xuống lấy xe đạp và mở cửa đi ra ngoài. Mẹ tôi thì thầm:
Biển lại yên rồi, ngủ tiếp đi. Hôm nay các con không phải đi học.Chúng tôi không thể ngủ được. Chúng tôi đang ở trong một ngôi nhà mới, chúng tôi phải ngó qua nó một lượt đã. Nhà vệ sinh ở bên ngoài, với một cánh cửa cho phép bạn ngồi ở bên trong đọc những mảnh báo cài sẵn trong đó. Có một cái sân sau dài, một cái vườn cỏ mọc đầy cao đến gối, một chiếc xe đạp cũ chắc phải có từ thời cụ của bác Laman, những cái lon rỗng, rất nhiều báo và tạp chí mục nát dưới mặt đất, một chiếc máy khâu bụi phủ đầy, một con mèo chết với cái tròng ở cổ mà chắc là kẻ nào đó đã lẳng vào qua hàng rào.
Michael nảy ra ý tưởng rằng đây là châu Phi và nó cứ luôn mồm hỏi:
Tarzan đâu? Tarzan đâu?Nó cởi truồng chạy qua chạy lại trong sân bắt chước cảnh Tarzan chuyền từ cành cây này sang cành cây khác. Malachy nhìn sang một cái sân khác qua hàng rào và bảo với chúng tôi:
Họ có vườn. Họ trồng cây. Chúng ta cũng có thể trồng cây. Chúng ta có thể trồng khoai tây và các cây khác.Mẹ tôi ở trong bếp gọi với ra bảo anh em tôi kiếm thứ gì đó để đun.
Có một cái lán bằng gỗ được dựng gá vào bức tường phía sau của ngôi nhà. Nó đã bị sập và chắc chắn chúng tôi có thể sử dụng một ít gỗ từ cái lán đó để nhóm lửa. Mẹ tôi không vừa ý với chỗ gỗ chúng tôi mang vào. Mẹ tôi bảo gỗ mục rồi và lại có nhiều mọt nữa nhưng những kẻ ăn xin thì làm gì được lựa chọn. Gỗ cháy xèo xèo trên đám giấy báo và chúng tôi nhìn những con mọt trắng cuống cuồng chạy trốn khỏi lưỡi lửa. Michael nói nó rất thương những con mọt nhưng chúng tôi biết nó thương cho tất tần tật mọi thứ trên đời này.
Mẹ tôi kể rằng ngôi nhà này đã từng được sử dụng làm cửa hàng, rằng mẹ của bác Laman trước đây bán thực phẩm và chính vì thế mà bà ấy có thể nuôi bác Laman học ở trường cao đẳng Rockwell để rồi sau đó bác ta trở thành một sĩ quan của Hải quân Hoàng gia. Đúng là bác ta đã phục vụ trong Hải quân Hoàng gia thật. Chúng tôi thấy trong một bức ảnh treo trên tường có bác ta và các sĩ quan khác đang ăn tiệc cùng với ngôi sao điện ảnh Mỹ Jean Harlow. Từ khi bác ta gặp Jean Harlow bác ta không còn là chính mình nữa. Bác ta yêu cô đào này đến phát điên phát cuồng nhưng có ích gì chứ? Cô ấy là Jean Harlow còn bác ta chỉ là một anh viên chức quèn trong lực lượng hải quân và điều đó đã khiến bác ta tuyệt vọng lao vào uống rượu như điên và cuối cùng người ta đuổi bác ta ra khỏi lực lượng hải quân. Bây giờ hãy nhìn bác ta xem, một anh thợ chôn cột điện của sở Điện lực với một ngôi nhà tồi tàn. Nếu bạn nhìn ngôi nhà này bạn sẽ nghĩ nó là một ngôi nhà hoang. Bạn có thể thấy rằng từ khi mẹ bác Laman chết bác ta không động chân động tay vào bất cứ thứ gì trong nhà và thế là bây giờ chúng tôi muốn ở được thì phải dọn bở cả hơi tai.
Có những cái hộp đựng đầy dầu gội đầu màu tím. Trong khi mẹ tôi đi vệ sinh chúng tôi mở một lọ dầu ra và thoa lên tóc. Malachy nói mùi dầu rất thơm nhưng khi mẹ tôi vào nhà mẹ lại trừng mắt lên hỏi:
- Mùi gì thối thế hả?
Mẹ muốn biết tại sao đầu chúng tôi bỗng dưng lại trơn thế. Mẹ tôi bắt chúng tôi ra vòi nước gội cho sạch thứ dầu đó và lau khô tóc bằng cái khăn mẹ tìm thấy dưới một đống tạp chí The llhistrated London xuất bản từ đời nảo đời nào mà có cả ảnh nữ hoàng Victoria và hoàng tử Edward đứng vẫy tay. Có cả những bánh xà phòng của hiệu Pear và một cuốn sách dày có tiêu đề là Bách Khoa Toàn Thư của Pear, cuốn sách mà tôi chúi mũi vào cả ngày lẫn đêm vì nó cho tôi biết tất cả mọi điều và đó là tất cả những gì tôi muốn biết.
Có những chai dầu xoa hiệu Sloan, thứ mà mẹ tôi bảo dùng để xoa khi chúng tôi bị chuột rút hay bị đau nhức. Trên các bình đó có dòng chữ in đậm, “Đau ở đây, Sloan đâu?”. Có những hộp pin an toàn và những cái túi đựng những cái mũ của phụ nữ mà bạn chỉ cần động tay vào là chúng bở ra. Có những cái túi đựng áo lót phụ nữ, nịt tất, giày cao gót và những lọ thuốc hứa sẽ làm má bạn hồng hơn, làm mắt bạn sáng hơn và làm tóc bạn quăn. Có những bức thư do tướng Eoin O’Duffy gửi cho Gerard Griffin, trong đó có nói rằng hoan nghênh chàng trai trẻ ra nhập lực lượng biên phòng, lực lượng lính áo xanh Ailen, rằng thật hân hạnh được biết Gerard Griffin, một người có thành tích học tập xuất sắc, một người đã từng được huấn luyện trong hải quân hoàng gia, một cầu thủ nổi tiếng của đội bóng bầu dục Young Munster, đội bóng đã giành cúp vô địch quốc gia, cúp Bateman. Tướng O’Duffy đang thành lập một đơn vị lính Ailen để sang Tây Ban Nha chiến đấu với quân của tổng tư lệnh Franco, và nếu Gerard tham gia vào đội quân đó thì chắc chắn nó sẽ được bổ sung sức mạnh chiến đấu.
Mẹ tôi kể rằng mẹ bác Laman không cho bác ta đi. Bà ấy không muốn một mình năm này qua năm khác cặm cụi với cái cửa hàng thực phẩm chắt bóp cho con trai ăn học để rồi con trai bà ấy lại lang thang đến Tây Ban Nha vì cái ông Franco nào đó và thế là bác Laman ở nhà và xin làm anh thợ chôn cột điện cho sở Điện lực. Mẹ bác ta vui vì tối nào cũng có bác ta ở nhà còn bác Laman thì cứ tối thứ Sáu lại say khướt và rên rỉ gọi tên Jean Harlow.
Mẹ tôi mừng vì chúng tôi có hàng đống giấy để nhóm bếp mặc dù mùi giấy cũ và củi mọt chẳng thơm tho gì và lại còn những con mọt nữa, mẹ tôi lo chúng sẽ chạy thoát rồi sinh sôi nảy nở ra.
Cả ngày chúng tôi phải dọn những đống hộp và túi ra cái lán ở bên ngoài. Mẹ tôi mở tất cả các cửa sổ để thông khí trong nhà và để cho mùi dầu và mùi ẩm mốc bay vợi đi. Mẹ tôi bảo lại được trông thấy sàn nhà thật là nhẹ cả người và giờ đây chúng tôi có thể ngồi xuống thưởng thức một tách trà trong yên tĩnh, thảnh thơi, và thoải mái, và khi nào trời ấm chúng tôi bày bàn trà ra vườn ngồi uống như người Anh thì chắc là tuyệt lắm.
Tối nào bác Laman cũng về nhà lúc sáu giờ trừ thứ Sáu, và bác uống trà rồi đi ngủ cho đến sáng hôm sau. Các thứ Bảy bác đi ngủ từ một giờ chiều và nằm miết cho đến sáng thứ Hai. Bác ấy kéo cái bàn vào sát tường ngay dưới gác xép, trèo lên một cái ghế, để cái ghế lên bàn, rồi lại trèo lên ghế, vịn tay vào một chân giường trên gác xép, và trèo lên. Nếu thứ Sáu bác uống quá say thì bác bắt tôi trèo lên lấy gối và chăn xuống cho bác và bác ngủ trên sàn bếp hoặc là bò lên giường ngủ với tôi và các em tôi để rồi cả đêm chúng tôi phải nghe bác ta ngáy và đánh rắm.
Khi chúng tôi mới chuyển đến bác ta càu nhàu về việc đang yên đang lành bác ta phải bỏ cái giường lớn để lên cái gác xép chật bằng lỗ mũi ấy ngủ và mỗi khi muốn đi vệ sinh lại phải leo xuống chạy ra nhà vệ sinh ở tận sân sau. Mỗi khi chuẩn bị xuống bác ta lại gọi:
Bàn đâu, ghế đâu, tao xuống đây.Chúng tôi phải vội vội vàng vàng đẩy bàn xếp ghế cho bác ta xuống. Bác chán phải như vậy mãi. Bác không trèo lên trèo xuống nữa mà dùng cái bô của mẹ bác. Bác ta nằm lì trên giường cả ngày đọc sách mượn từ thư viện, hút thuốc Gold Flake và ném xuống cho mẹ tôi mấy shilling để một trong chúng tôi đi mua bánh nướng, giăm bông và cà chua thái sẵn cho bác ta uống trà. Rồi bác ta gọi mẹ tôi:
Angela, bô này đầy rồi đây này, và mẹ tôi vội kéo bàn, kê ghế, trèo lên lấy bô xuống, mang đi đổ, rửa sạch rồi lại trèo lên để nó vào chỗ cũ. Mẹ tôi nhăn mặt bảo bác ta: Hôm nay anh còn muốn tôi hầu gì nữa đây?Bác ta cười:
Đó là việc của đàn bà, Angela, việc của đàn bà và cô không mất tiền thuê nhà.Bác Laman ném thẻ thư viện của bác ấy xuống và bảo tôi đi mượn cho bác ấy hai quyển sách, một quyển nói về câu cá, một quyển nói về làm vườn. Bác ta ném xuống tiếp một cái giấy do bác ta viết gửi người quản thư nói rằng bác ta bị đau chân vì đi chôn cột điện và từ bây giờ trở đi Frank McCourt sẽ đến lấy sách cho bác ta. Bác ta viết rằng bác ta biết cậu bé bác ta sai đi lấy sách chỉ gần mười bốn tuổi và biết thư viện không cho phép trẻ em được đến gian sách dành cho người lớn nhưng bác ta đảm bảo rằng cậu bé bác ta cử đi sẽ rửa tay sạch sẽ và nghe lời người lớn. Và bác ta gửi cả một chữ cám ơn to tướng vào tờ giấy.
Người quản thư đọc tờ giấy bác Laman gửi rồi nói:
Khổ thân ông Griffin, ông ấy đúng là một người đàn ông lịch sự, một người đàn ông có học, cậu không thể tin được ông ấy đã đọc bao nhiêu sách đâu, có tuần ông ấy đọc bốn quyển, có hôm ông ấy mượn về cả một cuốn sách bằng tiếng Pháp viết về lịch sử của chiếc bánh lái. Và nếu bạn không phiền thì cô quản thư quá nhiệt tình ấy sẽ cho bạn biết tất cả về cái đầu của bác Laman bởi vì như cô ấy nói nó chứa tất cả các loại học vấn, vậy đấy, nếu bạn không phiền.Cô quản thư lấy ra một cuốn sách được in rất đẹp với nhiều tranh ảnh về những khu vườn của nước Anh. Cô nói:
Tôi biết ông ấy thích đọc cuốn nào trong sô sách viết về câu cá rồi, - và cô ấy chọn một cuốn sách có tiêu đề là Săn cá Hồi Ailen do một chỉ huy quân đội cấp cao tên là Hugh Colton viết.Cô lại nói:
Ông ấy đã đọc hàng trăm cuốn sách nói về các sĩ quan Anh đi câu cá ở Ailen rồi đấy. Chính tôi vì tò mò cũng đã thử đọc mấy cuốn, cậu cứ đọc thử mà xem cậu sẽ hiểu tại sao những sĩ quan đó lại thích ở Ailen đến thế sau khi họ đã chán ngấy cả Ân Độ và châu Phi và nhũng nơi buồn tẻ khác trên thế giới. ít nhất con người ở đây cũng lịch sự. Chúng ta nổi tiếng là những người lịch sự mà, lịch sự, chúng ta không chạy quanh ném giáo vào người khác.Bác Laman nằm trên giường đọc sách và nói vọng xuống rằng khi nào bác khỏi chân bác ta sẽ ra ngoài kia quy hoạch lại khu vườn và sẽ làm cho nó nổi tiếng khắp gần xa vì vẻ đẹp và vẻ rực rỡ của nó và khi nào bác không làm vườn bác sẽ đi khắp các sông ở Limerick và mang về nhà những con cá hồi khiến chúng tôi trông thấy là thèm rỏ rãi liền. Bác bảo mẹ bác để lại một công thức chế biến món cá hồi gia truyền và nếu bác ấy có thời gian và nếu cái chân đau không giết chết bác thì bác sẽ tìm cho ra cái công thức ấy. Bác bảo tôi đã được tin tưởng vì thế từ giờ mỗi tuần tôi có thể mượn một cuốn sách cho riêng tôi nhưng đừng có mang những thứ rác rưởi về nhà. Tôi muốn biết thế nào là những thứ rác rưởi nhưng bác không giải thích mà bảo rằng tôi phải tự tìm hiểu lấy.
Mẹ tôi bảo rằng mẹ tôi cũng muốn đến thư viện mượn sách đọc nhưng thư viện cách nhà bác Laman những hai dặm nên mẹ nhờ tôi mỗi tuần mượn cho bà một cuốn sách, một cuốn tiểu thuyết của Charlotte M.Brame hoặc sách của những nhà văn nổi tiếng. Bà không muốn đọc bất cứ cuốn sách nào nói về những sĩ quan Anh đi săn cá hồi hay về những cảnh chém giết. Thế giới này đã có đủ rắc rối rồi chẳng cần phải biết thêm những chuyện con người quấy rầy lũ cá hồi và quấy rầy nhau nữa.
Cái tối bà tôi đến ngõ Roden giải quyết rắc rối về chỗ ở cho chúng tôi bà tôi đã bị cảm lạnh và rồi bệnh biến chứng thành viêm phổi. Bà tôi được đưa vào viện Home City và qua đời.
Con trai cả của bà tôi, bác Tom, nghĩ rằng bác ấy sẽ sang Anh làm việc như những người đàn ông ở các ngõ của Limerick nhưng bệnh lao phổi của bác ấy mỗi ngày một nặng và cuối cùng bác ấy lần về được đến Limerick và qua đời.
Vợ của bác Tom, bác Galway Jane, theo chồng về với tổ tiên, và thế là bốn trong số sáu đứa con của họ phải vào trại mồ côi. Con trai lớn nhất của bác Tom, anh Gerry, trốn nhà ra nhập quân đội Ailen, rồi đảo ngũ chạy sang quân đội Anh. Con gái lớn nhất của bác Tom, chị Peggy, đến nhà bác Aggie và sống ở đó trong cảnh khổ sở.
Quân đội Ailen tuyển những thiếu niên có năng khiếu âm nhạc vào trường quân nhạc. Họ nhận em trai tôi, Malachy, và thế là nó lên đường đến Dublin để trở thành một người lính và chơi trom- pét.
Bây giờ tôi chỉ còn hai đứa em trai và mẹ tôi nói rằng gia đình của bà đang biến mất dần ngay trước mắt bà.