Chương 14
Sáng ra bác Abbot đưa tiền bảo tôi đi mua bánh mì, sữa, trà, tạp chí. Bác ấy đun nước pha trà và nói:
- Mày uống trà đi, cho vừa đường chứ, tao không phải là một triệu phú đâu. Cho mày cả một miếng bánh đấy nhưng đừng có cắt dày quá nghe chưa.
Giờ đã là tháng Bảy và cuối cùng cuộc đời cắp sách của tôi đã chấm dứt vĩnh viễn. Vài tuần nữa thôi là tôi sẽ trở thành một người đi đưa điện tín, sẽ đi làm như một người đàn ông thực thụ. Vài tuần nữa thôi là tôi sẽ trở thành triệu phú thời gian muốn làm gì thì làm, có thể thức hay ngủ tùy thích, có thể đi bộ ra ngoại ô giống như bố tôi, và có thể đi quanh thành phố Limerick này. Nếu tôi có tiền tôi sẽ đến rạp Lyric, ăn kẹo, xem Errol Flynn chinh phục tất tần tật mọi người anh ta gặp. Tôi có thể đọc các tờ báo Anh và báo Ailen mà bác Abbot mang về nhà hoặc sử dụng thẻ thư viện của gã Laman và thẻ của mẹ tôi cho tới khi nào họ phát hiện ra.
Mẹ tôi cho Michael mang tới cho tôi một bình trà pha sữa còn ấm, mấy lát bánh mì, một mảnh giấy trong đó có viết rằng Laman không còn giận nữa nên tôi có thể về nhà. Michael nói:
- Anh về nhà thôi chứ, anh Frankie?
Không. Về đi mà, Frankie. Anh ở đây. Anh không bao giờ về đó nữa đâu. Nhưng anh Malachy đi lính rồi còn anh lại ở đây và em chẳng có anh nào ở nhà hết. Tất cả bọn nó đều có anh trai ở nhà mà em chỉ có mỗi Alphie thôi. Nó mới bốn tuổi chẳng nói chuyện được với em nhiều như anh và anh Malachy. Anh không về đâu. Anh sẽ không bao giờ về đó đâu. Lúc nào thích chơi với anh em cứ đến đây.Em tôi rơm rớm nước mắt khiến lòng tôi nhói đau. Tôi muốn nói với nó: “Được rồi, anh sẽ về với em”. Tôi chỉ nói thế thôi. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ có thể đối mặt với gã Laman nữa và tôi không biết liệu tôi còn có thể nhìn mặt mẹ tôi nữa hay không. Tôi nhìn theo Michael đi ra ngõ với đôi giày rách phát ra những tiếng lách tách trên vỉa hè. Ngay khi tôi nhận được tuần lương đầu tiền do bưu điện trả tôi sẽ mua cho em tôi một đôi giày. Tôi sẽ mua cho nó một quả trứng và dẫn nó tới rạp Lyric xem phim và mua kẹo cho nó ăn và sau khi đi xem phim chúng tôi sẽ đến quán Naughton ăn cá tẩm bột chiên cho đến khi bụng chúng tôi no kềnh mới thôi. Một ngày nào đó tôi sẽ kiếm đủ tiền để mua một căn nhà hoặc một căn hộ có điện sáng, có nhà vệ sinh riêng cùng những chiếc giường trải khăn sạch sẽ và những chiếc gối êm. Chúng tôi sẽ ăn sáng trong một căn bếp sáng trưng có những bông hoa nhảy múa bên ngoài cửa sổ và những chiếc cốc chiếc đĩa xinh xắn, sẽ ăn món trứng, lòng đỏ trứng phết bơ béo ngậy, với một bình trà thơm ngọt và bánh mì nướng phết mứt cam. Chúng tôi sẽ nghỉ ngơi thoải mái và nghe nhạc từ chương trình của đài BBC và đài Mỹ. Tôi sẽ mua quần áo tử tế cho mọi người trong nhà để mông chúng tôi không thò ra ngoài quần khiến chúng tôi xấu hổ. Nghĩ đến sự xấu hổ tôi lại thấy đau lòng và tôi bắt đầu sụt sịt. Bác Abbot thấy thế bèn hỏi:
- Mày làm sao thế? Mày không được ăn bánh chứ gì? Mày muốn gì nữa nào? Chắc thằng này đòi ăn trứng đây.
Nói chuyện với một người bị tật ở đầu phải đi bán báo kiếm sống chẳng ích gì.
Bác ấy phàn nàn rằng bác ấy không thể nuôi tôi ăn mãi được và bảo tôi phải tự kiếm lấy bánh và trà mà dùng. Bác ấy không muốn về nhà nhìn thấy tôi ngồi đọc báo dưới ánh điện trong bếp nhà bác ấy. Bác ấy biết đọc số nên trước khi bác ấy ra ngoài bán báo bác ấy nhìn số trên đồng hồ đo điện và vừa về đến nhà là bác ấy kiểm tra ngay xem tôi dùng hết bao nhiêu điện của bác ấy và nếu tôi không tắt đèn đi thì bác ấy tháo cầu chì bỏ vào túi áo mang đi và nếu tôi cho một cái cầu chì mới vào thì bác ấy thôi dùng điện luôn và chuyển sang dùng khí gas, thứ nhiên liệu mà ở thời của bà tôi là quá tốt và với bác ấy thì cũng chẳng có gì đáng kêu ca bởi vì bác ấy chỉ ngồi trên giường ăn cá và khoai tây rồi đếm tiền rồi lăn ra ngủ.
Tôi dậy sớm giống như bố tôi và đi bộ ra ngoại ô. Tôi đi vòng qua nghĩa trang Mungret nơi có mộ của họ hàng đằng nhà mẹ tôi rồi tôi đi ngược lên pháo đài Norman ở Carrigogunnell nơi bố tôi đã đưa tôi đến vài lần. Tôi trèo lên đỉnh pháo đài và ngắm đất nước Ailen trải dài trước mắt, ngắm con sông Shannon lấp lánh dưới ánh mắt trời như một dải lụa óng vắt ra tận Đại Tây Dương. Bố tôi kể rằng pháo đài này được xây dựng hàng trăm năm trước và nếu bạn đợi tới lúc những con chim chiền chiện ngừng hót thì bạn có thể nghe thấy tiếng quai búa và tiếng nói chuyện rì rầm của người Norman trước khi họ vào trận đánh. Một lần bố tôi đưa tôi lên đây vào buổi tối để tôi có thể nghe thấy người Norman nói chuyện và tôi đã nghe thấy. Tôi đã nghe thấy tiếng nói của họ.
Thỉnh thoảng tôi lên đó một mình và đứng ở trên cao tôi nghe thấy tiếng cười tiếng hát của những cô gái Norman thời xưa và khi tưởng tượng ra họ tôi bị cuốn hút đến nỗi tôi trèo lên tận điểm cao nhất của pháo đài nơi xưa kia đã từng có một cái tháp và ở trên đó trước toàn cảnh đất nước Ailen tôi làm chuyện thú vị một mình.
Đó là một tội lỗi mà tôi không bao giờ có thể nói với một linh mục. Trèo lên pháo đài cao và thủ dâm trước toàn cảnh Ailen chắc chắn phải tồi tệ hơn là làm chuyện đó ở một nơi kín đáo một mình hay với người khác hay với thú vật. Ởbên dưới trên những cánh đồng hay trên bờ sông Shannon một đứa bé hoặc một cô gái đi vắt sữa có thể nhìn lên và bắt gặp tôi đang phạm tội và nếu họ nhìn thấy thật thì tôi bị kết tội là cái chắc bởi vì linh mục luôn nói rằng bất cứ ai để cho một đứa trẻ thấy mình đang phạm tội thì người đó sẽ phải gánh một trách nhiệm nặng nề và đáng bị ném xuống biển.
Tôi ước gì linh mục già điếc đặc của nhà thờ Dominica quay về nhà thờ để tôi có thể nói với ông ấy những rắc rối của tôi xung quanh chuyện thú vị nhưng ông ấy chết rồi và tôi phải đối mặt với một linh mục cứ luôn miệng nói về trách nhiệm nặng nề và việc kết tội.
Kết tội. Đó là từ mà tất cả các linh mục ở Limerick đều ưa dùng.
Tôi đi bộ dọc đại lộ O’Connell và đại lộ Ballinacurra nơi những người giao sữa và bánh mì sớm để hàng trên các bậc cửa và chắc chắn nếu tôi mượn tạm một ổ bánh hay một bình sữa thì cũng chẳng chết ai vì dù thế nào thì khi tôi nhận được tiền công ở bưu điện tôi cũng sẽ trả lại các thứ tôi lấy cho người ta. Tôi không ăn trộm, tôi chỉ mượn thòi, và như thế đâu phải là tội lỗi. Hơn nữa lúc đứng trên pháo đài tôi còn phạm vào một tội tày trời thì đã sao và nếu bạn đã phạm vào một tội lỗi thì bạn có lẽ sẽ phạm thêm mấy tội nữa vì đằng nào thì bạn cũng bị đày xuống địa ngục thôi. Một tội thì cũng vĩnh viễn ở địa ngục. Một trăm tội thì cũng xuống đến địa ngục là cùng.
Trộm một con cừu non hay một con cừu to thì cũng vẫn bị treo cổ, mẹ tôi đã nói thế. Tôi uống một bình sữa lạ và bỏ cái bình lại để người đi giao sữa khỏi bị phạt vì không giao hàng. Tôi quý những người giao sữa bởi vì đã có lần một người giao sữa cho tôi hai quả trứng vỡ và tôi đã mút sống ngon lành. Người giao sữa ấy bảo rằng nếu tôi không ăn gì khác mà ngày nào cũng ăn hai quả trứng ngâm trong một ly bia đen thì lớn lên tôi sẽ rất khỏe mạnh. Tất cả những gì bạn cần đều ở trong trứng cả và tất cả những gì bạn muốn đều ở trong bia rồi.
Một số nhà đặt mua loại bánh mì ngon hơn những nhà khác. Loại bánh mì ngon đương nhiên là đắt hơn và tôi mượn loại ngon vì đằng nào cũng cùng công mượn. Tôi cảm thấy ái ngại cho những người giàu kia sáng dậy ra cửa chẳng thấy sữa và bánh của mình đâu nhưng tôi không thể để cho mình chết đói được. Nếu tôi để mình đói quá thì tôi sẽ không có sức để đi đưa điện tín, và thế có nghĩa là tôi sẽ không có tiền để trả lại bánh mì và sữa tôi đã mượn của người ta và sẽ không thể tiết kiệm tiền để đi Mỹ được và nếu tôi không thể đi Mỹ thì tôi chỉ còn nước nhảy xuống sông Shannon. Chỉ mấy tuần nữa thôi là tôi sẽ có những đồng tiền lương đầu tiên và chắc chắn từ giờ đến lúc đó những người giàu kia sẽ chẳng chết đói được đâu mà tôi lo.
Họ luôn có thể sai người giúp việc nhà họ đi mua bánh tiếp. Đó chính là sự khác biệt giữa người nghèo và người giàu. Người nghèo không thể mua thêm bánh bởi vì họ lấy đâu ra tiền mà mua và nếu họ có tiền đi nữa thì cũng làm gì có người giúp việc để mà sai đi. Điều khiến tôi ngại nhất chính là những người giúp việc. Tôi phải cẩn thận khi mượn sữa và bánh mì bởi những cô giúp việc thường lau cửa sớm. Nếu họ nhìn thấy tôi họ sẽ chạy vào nhà kêu với bà chủ của họ: “Ôi, bà chủ ơi, ngoài kia có một thằng cu đã lấy trộm hết cả bánh mì và sữa rồi”.
Thằng cu. Những cô giúp việc luôn nói như thế bởi họ đều từ nông thôn ra, những con bê cái, như chú của Paddy Clohenssy vẫn nói, và đến cả đám hơi bốc lên khi họ đi tiểu họ cũng không cho bạn đâu.
Tôi mang bánh mì về nhà và thậm chí nếu bác Abbot có ngạc nhiên thì bác ấy cũng chẳng hỏi xem tôi lấy bánh ở đâu ra bởi vì bác ấy bị tật ở đầu và cái tật đó làm cho tính tò mò biến hẳn khỏi đầu bác ấy. Bác ấy chỉ giương đôi mắt to xanh ở giữa và vàng ở xung quanh lên nhìn tôi rồi xì xụp uống trà từ cái cốc đã vỡ mà bà tôi để lại. Bác ấy bảo tôi:
Cái cốc đó là của tao. Tráng xa nó ra.Tráng xa nó ra. Đó là kiểu nói của những người sống trong những khu ổ chuột Limerick làm bố tôi lo lắng. Bố tôi nói:
Tôi không muốn các con lớn lên trong một cái ngõ ở Limerick và mở miệng nói “Tráng xa nó ra”. Như thế nghe tầm thường lắm. Phải nói đúng là “Tránh xa nó ra” chứ.Mẹ tôi bẻ lại:
Tôi hy vọng anh nói chuẩn nhưng anh có làm gì để chúng ta tráng xa nó ra đâu.Ra tới khu Ballinacurra tôi trèo tường vào các vườn quả hái trộm táo. Nếu thấy một con chó thì tôi dừng lại bởi tôi không được Paddy Clohessy bày cho cách nói chuyện với chó. Những người nông dân đuổi bắt tôi nhưng họ đi ủng cao su nên chạy rất chậm và nếu họ có nhảy lên xe đạp đuổi theo tôi thì tôi lại trèo qua tường và thế là họ chịu không vác xe qua tường được.
Bác Abbot biết tôi lấy táo ở đâu. Nếu bạn lớn lên trong một ngõ nghèo của Limerick thì sớm hay muộn bạn cũng đi hái trộm táo. Cho dù bạn không thích ăn táo đi nữa bạn vẫn phải trộm táo nếu không bạn bè của bạn sẽ gọi bạn là đồ ẻo lả.
Tôi thường mời bác Abbot ăn táo nhưng bác ấy không ăn bởi vì bác ấy bị thiếu răng. Bác ấy chỉ còn có năm cái răng thôi và bác ấy không dám liều cắm chúng vào một quả táo. Nếu tôi bổ táo ra thành những miếng nhỏ và mời bác ấy thì bác ấy lại bảo rằng ăn táo như thế là không đúng kiểu. Bác ấy nói như vậy đấy và nếu tôi bảo rằng bác ấy vẫn cắt bánh mì ăn đấy thôi thì bác ấy lại nói rằng táo là táo mà bánh mì là bánh mì.
Khi người ta bị tật ở đầu thì người ta nói theo kiểu ấy đấy.
Michael lại mang trà pha với sữa và bánh mì đến cho tôi. Tôi bảo với nó rằng tôi không cần những thứ đó nữa. Tôi nói:
- Về bảo với mẹ là anh tự lo cho mình được và anh không cần trà của mẹ đâu. Bảo mẹ là anh cám ơn.
Michael vui khi tôi cho nó một quả táo và thế là tôi bảo nó cứ hai ngày lại đến một lần mà ăn táo. Tôi nói thế làm nó không đòi tôi về nhà nữa và tôi mừng vì nó không khóc trước mặt tôi.
Ở Irishtown có một cái chợ nông sản mở cửa vào các ngày thứ Bảy. Nếu như tôi đến đó sớm và giúp những người nông dân dỡ hàng thì họ sẽ cho tôi vài xu. Vào cuối ngày họ cho tôi chỗ rau họ không bán hết. Một bà vợ của một người nông dân luôn cho tôi những quả trứng vỡ. Bà ấy bảo tôi:
- Sáng mai sau khi đã được rửa tội ở lễ Mixa cậu hãy rán trứng lên mà ăn vì nếu cậu ăn trứng khi cậu còn mang một cái tội thì trứng sẽ mắc trong cổ họng câu không trôi xuống đâu.
Bà ấy là vợ một nông dân và bà ấy nói như thế đấy.
Bây giờ tôi chẳng khác một kẻ ăn xin là mấy vì tôi hay đứng chầu trước các cửa hàng bán cá tẩm bột chiên đợi tới giờ người ta đóng cửa hàng để nhặt những chỗ cá tẩm bột chiên quá lửa hoặc những miếng cá người ta ăn thừa. Nếu người của cửa hàng không vội họ sẽ lấy cho tôi một ít khoai tây chiên và cho tôi một mảnh báo để gói.
Tôi thích tờ News of the world. Ở Ailen tờ báo đó bị cấm lưu hành nhưng người ta vẫn lén đưa nó từ Anh vào vì nó hay có ảnh các cô gái mặc áo tắm mà như không mặc gì. Đọc tờ báo đó bạn sẽ thấy người ta phạm đủ các loại tội lỗi từ tội ly dị cho đến tội thông dâm.
Thông dâm. Tôi vẫn phải tra từ điển để tìm xem thông dâm nghĩa là gì, tôi sẽ phải đến thư viên tìm cho ra mới được.
Tôi mang gói khoai tây về nhà và leo lên giường giống như bác Abbot. Nếu bác Abbot mà nốc vài vại bia vào thì bác ấy sẽ ngồi trên giường ăn cá và khoai tây chiên bọc trong tờ Limerick Leader và hát Đường đến Rasheen. Tôi ăn khoai tây chiên của tôi. Tôi liếm tờ News of the world. Tôi liếm những câu chuyện nói về những người làm chuyện giật gân. Tôi thích các cô gái mặc áo tắm và khi không còn gì để liếm nữa tôi ngồi ngắm các cô gái trong tờ báo cho tới khi bác Abbot thổi đèn đi và tôi chui vào chăn và ở trong chăn tôi lại phạm một trọng tội.
Với thẻ thư viện của Laman và thẻ của mẹ tôi tôi có thể đến thư viện bất cứ lúc nào. Tôi sẽ không bị Laman bắt gặp bởi vì vào thứ Bảy ông ta có bao giờ ra khỏi giường đâu còn mẹ tôi thì xấu hổ vì ăn mặc nhếch nhác lên chẳng dám đến gần thư viện.
Cô quản thư O’Riordan mỉm cười và nói:
Cuốn Cuộc đời của các vị thánh đang đợi cậu đấy, Frank ạ. Từng tập từng tập đang đợi cậu. Tôi đã nói chuyện với giám đốc thư viện về cậu rồi và bà ấy hài lòng đến nỗi bà nói sẩn sàng cấp thẻ đọc sách cho cậu khi cậu đủ tuổi. Như thế tuyệt đấy chứ? Cảm ơn cô, cô O’Riordan.Tôi đọc về thánh Brigid, một thánh đồng trinh. Nữ thánh này đẹp đến nỗi đàn ông trên khắp Ailen ước ao được lấy bà làm vợ và bố của bà muốn bà kết hôn với một người có chức tước. Bà không muốn lấy ai hết vì thế bà cầu Chúa giúp bà và Người đã làm cho một bên mắt của bà tan chảy và làm cho nó chảy xuống má bà thành một vệt to khiến cho khuôn mặt bà trở nên khó coi và thế là đàn ông không còn để ý đến bà nữa.
Tôi thích thánh Moling, một giám mục người Ailen. Một hôm ông đang bước đi thì một người hủi gọi ông và hỏi:
Thánh Moling, ngài đi đâu đấy ạ? Ta đi lễ Mixa. Tôi cũng đi lễ Mixa đây. Ngài cõng tôi đi với được không?Thánh Moling đồng ý nhưng khi ông vừa cõng người hủi lên lưng thì người hủi đã bắt đầu phàn nàn:
Áo lông của ngài đâm vào những chỗ lở loét trên người tôi khó chịu quá. Ngài cởi nó ra đi.Thánh Moling cởi áo lông của mình ra và họ tiếp tục đi. Nhưng rồi người hủi lại nói:
Tôi phải xì mũi.Thánh Moling bảo người hủi:
Ta không có khăn tay đâu, dùng tay ông mà lau.Người hủi ca thán:
Tôi không thể vừa bám vai ngài vừa xì mũi được.Thánh Moling nói:
Thôi được, ông có thể xì mũi vào tay ta.Người hủi lắc đầu:
Không được đâu, hủi đã ăn mất một bàn tay của tôi rồi và tôi không thể vừa bám vai ngài vừa xì mũi vào tay ngài được. Nếu ngài là một vị thánh thực sự thì ngài hãy quay đầu ra sau và mút nước mũi đi cho tôi.Thánh Moling không muốn mút nước mũi của người hủi nhưng ông đã làm vậy và sau khi nhổ nước mũi của người hủi đi ông đã tạ ơn Chúa đã cho ông làm việc đó.
Tôi có thể hiểu được việc bố tôi mút nước mũi cho Michael khi nó còn bé nhưng tôi không thể hiểu được tại sao Chúa lại muốn thánh Moling mút mũi cho một người hủi. Tôi không hiểu Chúa chút nào và cho dù tôi rất muốn làm một vị thánh được mọi người sùng kính đi nữa tôi sẽ không bao giờ mút nước mũi cho một người hủi. Tôi muốn trở thành một vị thánh nhưng nếu làm thánh mà phải làm những việc như thế thì tôi nghĩ là tôi sẽ vẫn là tôi thôi chẳng làm thánh nữa.
Tuy vậy tôi vẫn sẵn sàng ở trong thư viện này cả đời đọc về những vị thánh đồng trinh và những vị thánh đồng trinh tử vì đạo cho tới khi tôi gặp rắc rối với cô O’Riordan vì một cuốn sách ai đó bỏ lại trên bàn của thư viện. Tác giả của cuốn sách là Lin Yutang. Ai cũng biết đó là một cái tên Trung Quốc và tôi tò mò muốn biết người Trung Quốc nói về chuyện gì. Đó là một cuốn sách gồm những bài tiểu luận về tình yêu và cơ thể con người trong đó có một từ khiến tôi tìm từ điển để tra. Cương. Tác giả viết rằng bộ phận giao hợp của nam giới cương lên khi tiếp xúc với bộ phận giao hợp của nữ.
Cương. Từ điển giải thích đó là sưng phồng hoặc căng lên và giờ thì tôi đã hiểu những gì Mickey Molloy đã nói với tôi dạo trước, và tôi đã hiểu rằng chúng ta cũng làm cái việc tương tự như việc những con chó đực và chó cái làm với nhau trên đường và tôi thật sửng sốt khi nghĩ rằng tất cả các ông bố và các bà mẹ đều làm cái việc đó.
Bố tôi đã nói dối tôi ngần ấy năm về thiên thần trên bậc thang thứ bảy.
Cô O’Riordan muốn biết tôi đang tra từ gì. Cô ấy có vẻ lo lắng khi thấy tôi cứ chúi mũi vào cuốn từ điển vì thế tôi bảo cô ấy rằng tôi đang tra một từ về tôn giáo.
- Gì thế này? Cô ấy nói. - Đây đâu phải là cuốn Cuộc đời của các vị thánh.
Cô ấy cầm cuốn sách của Lin Yutang lên và đọc những dòng chữ trên trang sách tôi đang đọc dở.
Lạy Chúa. Cậu đang đọc thứ này phải không? Rõ ràng tôi đã thấy cậu cầm nó mà. Ô, cháu-cháu-chỉ muốn biết người Trung Quốc có các vị thánh của họ hay không thôi. Ô, cậu đã đọc. Thứ này thật bẩn thỉu. Đúng là rác rưởi. Chẳng trách người Trung Quốc lại vậy. Nhưng cậu mong đợi tìm thấy gì ở những người mắt xiên da vàng ấy chứ, còn cậu, cậu hãy nhìn mình xem, cậu cũng có cái mắt xiên đấy. Cậu phải ra khỏi thư viện này ngay lập tức. Nhưng cháu đang đọc cuốn Cuộc đời của các vị thánh mà. Ra ngay nếu không tôi sẽ gọi người đứng đầu thư viện và bà ấy sẽ cho bảo vệ tới tống cổ cậu ra. Ra ngay. Cậu nên chạy ngay đến Cha xứ mà xưng tội đi. Đi ngay, và trước khi đi hãy nộp thẻ thư viện của người mẹ tội nghiệp của cậu và thẻ của ông Laman cho tôi. Tôi không quên viết cho mẹ cậu để mẹ cậu biết việc này đâu. Lin Yutang, đúng. Ra ngay.Khi những người thủ thư nổi giận như vậy thì có cố nói với họ cũng chẳng ích gì. Bạn có thể đứng đó cả giờ nói với họ tất cả những gì bạn đã đọc về những người hầu tử vì đạo của vị thánh đó nhưng họ chỉ nghĩ về mỗi một từ bạn đọc trong một trang sách của Lin Yutang mà thôi.
Hôm trước ngày sinh nhật lần thứ mười bốn của tôi tôi đứng trước chiếc tủ gương của bà tôi và nhìn mình ở trong đó. Tôi nhận thấy rằng bộ dạng tôi như thế thì khó mà bắt đầu công việc ở bưu điện được. Tất cả những thứ tôi mặc trên người đều rách bươm, còn giày thì có lẽ sẽ rơi khỏi chân tôi bất cứ lúc nào. Nếu mẹ tôi nhìn thấy những thứ tôi mặc trên người bây giờ thì thế nào mẹ tôi cũng sẽ gọi chúng là “Chút lịch sự còn lại của chúng ta”. Nếu quần áo của tôi đã tệ thì người tôi còn tệ hơn. Cho dù tôi cố công gội đầu dưới vòi nước bao nhiêu đi nữa tóc tôi vẫn cứ dựng đứng lên. Cách tốt nhất để xử lý những sợi tóc dựng đứng là dùng nước bọt, chỉ có điều bạn khó có thể nhổ bọt lên đầu mình được. Bạn phải nhổ nước bọt lên cao và cúi đầu xuống thật nhanh mà đón để nó rơi vào đầu bạn. Mắt tôi thì đỏ và đùn rỉ vàng, trên mặt tôi có đầy những mụn đỏ còn mấy cái răng cửa của tôi thì đen xỉn đến nỗi tôi nghĩ cả đời tôi sẽ không bao giờ dám cười nữa.
Tôi trông chẳng có vai gì hết trong khi đó tôi biết cả thế giới này ngưỡng mộ những đôi vai. ỞLimerick khi một người đàn ông qua đời những người phụ nữ luôn nói: “Ông ấy là một người đàn ông bệ vệ, vai ông ấy rộng đến nỗi ông ấy không đi vừa qua cửa nhà chị đâu, phải đi nghiêng”. Nếu tôi chết người ta sẽ nói: “Thằng quỷ nhỏ đáng thương, chết mà chẳng có vai gì hết”. Tôi ước gì trông tôi có vai để người ta biết rằng tôi đã mười bốn tuổi. Tất cả những thằng con trai ở Limerick này đều có vai trừ Fintan Slattery và tôi không muốn giống như câu ta cứ quì mà cầu nguyện đến mòn cả đầu gối. Nếu tôi có một ít tiền thì tôi sẽ thắp nến trước tượng thánh Francis và hỏi thánh xem liệu có thể xin Chúa trời cho vai tôi một ít cơ bắp hay không. Giả thử tôi có một con tem tôi sẽ viết thư cho Joe Louis và hỏi anh ta: “Anh Joe thân mến, anh làm ơn cho tôi biết anh lấy đâu ra đôi vai cơ bắp như thế khi mà anh cũng là con nhà nghèo?”.
Tôi trông phải lịch sự thì mới có thể đi làm ở bưu điện được vì thế tôi cởi hết quần áo ra và đành cứ trần truồng như thế đem quần áo ra vòi nước lấy bánh xà phòng giặt chúng. Tôi phơi quần áo và tất lên cái dây phơi của bà tôi, và cầu Chúa cho trời đừng mưa, cầu cho quần áo của tôi sẽ mau khô để tôi có thể mặc vào ngày mai, ngày khởi đầu cuộc đời của tôi.
Tôi không thể đi đâu khi mà trên người tôi chẳng có lấy một mảnh vải vì thế tôi ở trên giường cả ngày đọc những tờ báo cũ và ngắm những cô gái trong tờ News of the world và cảm ơn Chúa vì bên ngoài vẫn nắng. Năm giờ chiều bác Abbot về nhà và ở dưới nhà pha trà và mặc dầu rất đói bụng tôi không dám mở miệng xin bác ấy thức ăn vì tôi biết bác ấy sẽ càu nhàu. Bác ấy biết tôi rất sợ bác ấy sẽ đi gặp bác Aggie và nói cho bác Aggie biết rằng tôi đang ở nhà bà tôi và ngủ trên giường của bà và nếu bác Aggie mà nghe thấy như thế thì bác ấy sẽ lập tức chạy đến tống cổ tôi ra đường.
Hôm nào ăn xong bác Abbot cũng giấu bánh mì đi và tôi không bao giờ tìm thấy bánh của bác ấy. Thế nào bạn cũng nghĩ rằng một người không bị tật ở đầu thừa sức tìm được cái bánh mà một người bị tật ở đầu đã giấu. Rồi tôi hiểu ra rằng nếu cái bánh mì đó không có ở trong nhà thì chắc chắn bác tôi cất nó trong túi áo khoác bác ấy mặc trong cả mùa hè lẫn mùa đông. Nghe thấy tiếng bác Abbot đi từ bếp ra nhà vệ sinh một cái là tôi chạy ngay xuống dưới nhà, thọc tay vào túi áo khoác của bác ấy và lôi chiếc bánh ra, cắt một lát bánh thật dày, để phần bánh còn lại vào chỗ cũ, lên gác và đi nằm. Bác ấy chẳng thể nói gì được, chẳng thể buộc tội tôi được. Bạn phải là tên trộm mạt hạng mới đi ăn trộm một lát bánh mì và chẳng ai lại đi tin bác Abbot, thậm chí cả bác Aggie cũng không tin. Không những không tin mà có khi bác Aggie còn mắng bác Abbot: “Anh làm gì mà phải để một cái bánh mì trong túi áo, hả? Không có chỗ nào khác để cất một cái bánh mì hay sao?”.
Tôi nhai bánh thật chậm. Cứ khoảng mười lăm phút tôi mới cắn một miếng để ăn được lâu và nếu bánh mì trôi xuống dạ dày tôi cùng với nước thì nó sẽ nở ra và sẽ khiến cho tôi có cảm giác no.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ để chắc rằng mặt trời chiều vẫn đang làm khô quần áo cho tôi. Nhìn sang những cái sân khác tôi thấy những dây phơi với đầy những quần áo mang màu sắc tươi sáng đang nhảy múa trong gió. Quần áo của tôi trên dây phơi trông chẳng khác gì những con chó chết.
Ở bên ngoài mặt trời rực rỡ thật nhưng trong nhà thì lạnh và ẩm thấp và tôi ước tôi có gì đó để mà mặc cho đỡ lạnh. Tôi không còn quần áo nào nữa và nếu tôi mà động vào thứ gì của bác Abbot thì chắc chắn bác ấy sẽ chạy ngay đi tìm bác Aggie. Tất cả những gì tôi tìm thấy trong cái tủ quần áo là chiếc váy len đen của bà tôi. Người ta cho rằng bạn không nên mặc váy của bà bạn khi bà bạn đã chết và bạn lại là con trai nhưng mặc thì đã sao nếu nó làm bạn đỡ rét, mà bạn ở trong chăn có ai biết đâu mà sợ. Chiếc váy vẫn còn mùi của bà tôi và tôi lo không biết bà tôi có đội mồ dậy và nguyên rủa tôi trước toàn thể họ hàng hay không. Tôi cầu thánh Francis, cầu xin thánh giữ bà tôi ở yên dưới mồ, hứa với thánh rằng khi nào đi làm ở bưu điện tôi sẽ thắp một cây nến cho thánh, nhắc thánh rằng cái áo choàng thánh khoác trên người trông cũng chẳng khác một cái váy là mấy mà có ai dày vò thánh vì cái áo đó đâu và tôi ngủ thiếp đi để rồi nhìn thấy khuôn mặt thánh trong giấc mơ của mình.
Điều tồi tệ nhất trên đời là khi bạn đang ngủ trên giường của người bà quá cố, mặc trên người chiếc váy đen của bà thì bác Abbot lại bị ngã bên ngoài quán South sau một tối uống say bí tỉ và kẻ rỗi hơi nào đó đã chạy đến nhà bác Aggie bảo cho bác ấy biết để bác ấy và bác Pa Keating đến đưa bác Abbot về nhà, dìu bác ấy lên gác nơi bạn đang ngủ ngon và quát vào mặt bạn: “Mày làm gì trong cái nhà này, trên cái giường này, hả? Dậy ngay và đi đun nước pha trà cho bác Pat khốn khổ của mày đi” và khi bạn còn ngơ ngác chưa kịp nhúc nhích thì bác Aggie đã kéo chăn của bạn ra và giật người lên như thể nhìn thấy ma và hét: “Mày làm gì với cái váy của mẹ tao thế hả?”.
Đó là điều tồi tệ nhất bởi vì thật khó mà giải thích rằng bạn đang chuẩn bị cho một công việc quan trọng trong đời mình, rằng bạn đã giật hết quần áo và đang phơi chúng trên dây, rằng trời rất lạnh nên bạn buộc phải mặc thứ duy nhất bạn tìm thấy trong nhà để khỏi chết cóng, và thật là khó nói tất cả với bác Aggie được khi mà bác Abbot ở trên giường cứ luôn mồm rên la: “Chân tôi nóng như lửa thế này, đổ nước vào chân tôi đi”, còn bác Pa Keating thì lấy tay bưng miệng, dựa vào tường mà cười và bảo bạn rằng trông bạn rất tuyệt và màu đen rất hợp với bạn và bạn nhớ vuốt thẳng riềm váy. Bạn không biết phải làm gì khi bác Aggie bảo bạn: “Ra khỏi giường ngay và xuống bếp đun nước để pha trà cho bác mày. Mày cởi cái váy đó ra và quấn chăn vào mà đi hay mày cứ mặc nguyên thế mà đi, hả?”. Phút trước bác ấy vừa mới la: “Mày làm gì với cái váy của mẹ tao thế hả?” phút sau bác ấy đã bảo bạn xách ấm xuống dưới nhà đun nước. Tôi bảo với bác ấy rằng tôi đã giặt hết cả quần áo để chuẩn bị đi nhận việc.
- Việc gì?
- Đi đưa điện tín ạ.
Bác Aggie nói rằng nếu bưu điện thuê loại người như tôi vào làm thì chắc là cả bưu điện hết hy vọng rồi, và bác ấy lại quát tôi đi đun nước.
Điều tồi tệ xảy đến tiếp theo là bạn mang ấm ra sân sau để lấy nước đúng lúc cô Kathleen Purcell bên hàng xóm đang nghển cổ qua tường nhìn vào để tìm con mèo nhà cô ta. Bạn nghe rõ tiếng cô ấy sửng sốt: “Lạy Chúa tôi, Frankie McCourt, cậu làm gì với cái váy của bà cậu thế?” và bạn phải đứng đó với cái váy của bà bạn trên người và cái ấm trên tay mà giải thích rằng bạn đã giặt tất cả quần áo đem phơi trên cái dây kia và bạn rét quá không biết lấy gì mà mặc đành phải mặc váy của người bà đã qua đời và bác Pat, tức là bác Abbot, bị ngã nên vợ chồng bác Aggie đưa bác ấy về nhà và bác Aggie sai bạn đi đun nước và bạn sẽ thay cái váy này ra ngay khi quần áo của bạn khô bởi vì bạn chẳng thích mặc cái váy của người bà quá cố cả đời.
Kathleen rú lên, buông tay khỏi tường, quên tuột con mèo nhà cô ta, và bạn có thể nghe thấy cô ta cười rúc rích và hớt hải kể với bà mẹ mù rằng Frankie McCourt mặc váy của bà ngoại quá cố. Bạn phải biết rằng một khi Kathleen Purcell mà biết tí tẹo thông tin của một vụ xì căng đan thì trước khi trời sáng cả ngõ sẽ biết hết và bạn có thể thò đầu ra ngoài cửa sổ mà thực hiện một thông cáo chung về bản thân bạn và vấn đề chiếc váy.
Âm nước chưa kịp sôi thì bác Abbot đã ngủ mất vì say quá và bác Aggie nói rằng chính bác ấy và bác Pa sẽ uống trà còn tôi có uống hay không bác ấy không quan tâm. Bác Pa nói rằng nghĩ đi nghĩ lại bác ấy thấy chiếc váy đen tôi mặc có thể là áo của một thầy tu dòng Dominica và thế là cái ý nghĩ đó xui khiến bác ấy quì xuống và lẩm bẩm: “Xin hãy cứu rỗi con, thưa Cha, con có tội”. Bác Aggie rít qua kẽ răng: “Đứng dậy, anh thôi đi”. Sau đó bác ấy hỏi tôi: “Mày làm gì ở cái nhà này thế hả?”
Tôi không thể kể với bác ấy về mẹ tôi và Laman cùng chuyện thú vị của họ ở trên gác xép. Tôi bảo với bác ấy rằng tôi đang tính sẽ ở nhà bà tôi một thời gian vì nhà Laman xa bưu điện quá và ngay khi tôi ổn định công việc tôi sẽ tìm một chỗ ở tử tế và cả nhà tôi sẽ chuyển đến đó.
Bác Aggie khen tôi khá hơn bố tôi.