← Quay lại trang sách

Chương 15

Bạn khó mà chợp mắt được khi bạn biết rằng ngày hôm sau bạn bước sang tuổi mười bốn và sẽ bắt đầu công việc đầu tiên của mình như một người đàn ông thật sự. Bác Abbot thức dậy sớm và luôn mồm rên rỉ. Nếu tôi làm cho bác ấy ở nguyên trên giường thì tôi có thể có được một lát bánh nữa từ nửa cái bánh còn lại trong túi áo của bác ấy và nếu tôi tìm quanh cái máy hát của bà tôi thì thế nào tôi cũng thấy một lọ mứt.

Bác Abbot không biết đọc, không biết viết, nhưng bác ấy biết tìm chỗ để giấu mứt.

Tôi mang trà và bánh mì cho bác Abbot và cũng pha cho mình một ít trà. Tôi mặc quần áo vẫn còn ẩm vào và lên giường đắp chăn với hy vọng nhiệt từ người tôi có thể làm khô quần áo cho tôi trước khi tôi đi làm. Mẹ tôi vẫn bảo rằng mặc quần áo ướt rất dễ bị lao phổi và sớm bị xuống mồ. Bác Abbot ngồi dậy nói với tôi rằng bác ấy bị đau đầu vì tôi mặc chiếc váy đen của mẹ bác ấy khiến bác ấy mơ thấy bà cứ bay quanh nhà gào thét: “Tội lỗi, tội lỗi, đây là một tội lỗi.” Bác ấy uống hết chỗ trà tôi mang tới rồi nằm vật xuống giường ngủ tiếp còn tôi thì đợi đồng hồ của bác ấy chỉ tám rưỡi để dậy đi làm và để có mặt ở bưu điện lúc chín giờ cho dù quần áo tôi vẫn ẩm.

Lúc đi ra khỏi nhà tôi cứ băn khoăn tự hỏi tại sao bác Aggie lại đi vào trong ngõ. Chắc là bác ấy tới để xem bác Abbot còn sống không hoặc có cần một bác sĩ không. Bác ấy hỏi tôi:

Mấy giờ thì mày phải làm việc? Chín giờ ạ. Được rồi.

Bác ấy quay lại đi cùng tôi đến bưu điện ở đường Henry. Bác ấy chẳng nói một lời nào và tôi lo không biết liệu có phải bác ấy đến bưu điện để tố cáo tôi đã ngủ trên giường của bà tôi và mặc chiếc váy đen của bà tôi hay không. Bác ấy nói:

Đi lên trên ấy đi và nói với họ rằng bác của mày đang đợi mày ở ngoài này nên mày sẽ đi làm muộn nửa tiếng. Nếu họ muốn nói lôi thôi thì tao sẽ lên cho họ được lôi thôi. Tại sao cháu phải đi làm muộn chứ? Làm như tao bảo đi, đừng có lôi thôi.

Có những đứa con trai đang ngồi đợi trên chiếc ghế dài kê dọc theo một bức tường. Hai người phụ nữ, một béo, một gầy, đang ngồi tại một chiếc bàn. Người phụ nữ gầy hỏi:

Có việc gì thế? Cháu là Frank McCourt, thưa cô, cháu đến đây để nhận việc. Nhận việc gì? Đưa điện tín, thưa cô.

Người phụ nữ gầy cười khúc khích:

Ôi, Lạy Chúa, tôi cứ nghĩ cậu đến để dọn nhà vệ sinh cơ. Không, thưa cô. Mẹ cháu đã mang giấy giới thiệu của linh mục Cowpar đến đây, và chắc chắn có một công việc cho cháu. Ô, có ư? Vậy cậu có biết hôm nay là thứ mấy không? Cháu biết, thưa cô. Hôm nay là sinh nhật của cháu mà. Hôm nay cháu mười bốn tuổi. Quan trọng đấy - Người phụ nữ béo nói chen vào.

Người phụ nữ gầy nói:

Hôm nay là thứ Năm. Cậu bắt đầu làm việc từ thứ Hai cơ. Hãy đi đi và nhớ tắm rửa cho sạch sẽ rồi hôm ấy đến đây.

Những đứa con trai đưa điện tín ngồi ở ghế băng cười tôi. Tôi không biết tại sao nhưng tôi thấy mặt mình nóng bừng. Tôi nói cảm ơn với hai người phụ nữ và khi tôi quay ra tôi nghe thấy người phụ nữ gầy nói: “Lạy Chúa, chị Maurreen, ai rước cái của nợ ấy đến đây thế nhỉ?” và họ cùng cười với những đứa con trai đưa điện tín kia.

Bác Aggie hỏi tôi có xin phép được không và tôi trả lời rằng thứ Hai tôi mới bắt đầu đi làm. Bác ấy nói:

Quần áo mày trông tệ quá. Mày giặt bằng của nợ gì vậy? Bằng xà phòng carbolic. Mùi quần áo mày như là mùi chim chết ấy và mày làm cả họ nhà mày xấu hổ lây đấy.

Bác ấy dẫn tôi đến cửa hàng Roche và mua cho tôi một cái áo sơ mi, một chiếc áo len chui đầu, một chiếc quần soóc, hai đôi tất, một đôi giày đi mùa hè bán hạ giá. Bác ấy đưa cho tôi hai shilling để mua trà và một cái bánh sữa để ăn sinh nhật. Bác ấy bắt xe buýt về phố O’Connell vì bác ấy béo và lười không muốn đi bộ. Béo và lười, và vẫn mua cho tôi quần áo mới để tôi đi làm.

Tôi kẹp gói quần áo mói vào nách, đi về phía bến Arthur và trên đường về tôi phải đứng quay mặt ra sông Shannon để người ta không nhìn thấy những giọt nước mắt của một anh chàng đã bước sang tuổi mười bốn.

Sáng thứ Hai tôi dậy sớm, rửa mặt và lấy nước ngoài vòi nước và nước bọt vuốt cho tóc khỏi dựng đứng lên. Bác Abbot nhìn thấy tôi mặc bộ đồ mới bèn nói:

- Lạy Chúa, không phải mày đi cưới vợ đấy chứ? - Nói rồi bác ấy lại leo lên giường ngủ tiếp.

Bà O’Connell, người phụ nữ béo, nói: “Ô, ồ, diện đấy”, và người phụ nữ gầy, cô Barry, nói: “Cuối tuần vừa rồi cậu đi cướp nhà băng hay sao thế?” và đám con trai ngồi ở ghế băng cười phá lên.

Họ bảo tôi đến ghế băng ngồi đợi và tôi đợi đến lượt mình nhận những bức điện tín để đi phát. Mấy anh chàng mặc đồng phục là những người được tuyển dụng lâu dài thông qua thi cử. Họ có thể làm việc ở bưu điện mãi mãi nếu họ thích, họ sẽ thi tiếp để trở thành người đưa thư và sau đó theo học một khóa học để làm việc ở quầy bán tem và quầy thu ngân ở tầng dưới. Bưu điện phát cho họ những chiếc áo choàng không thấm nước để họ mặc đi làm trong những ngày mưa và mỗi năm họ được nghỉ hai tuần. Mọi người đều bảo công việc của họ là một công việc tốt, ổn định, đáng tôn trọng và có lương hưu, và nếu bạn có được một công việc như thế thì suốt cuộc đời bạn sẽ chẳng bao giờ phải lo lắng gì hết.

Những đứa con trai được tuyển dụng tạm thời chỉ được làm việc đến khi họ mười sáu tuổi. Họ không được phát đồng phục, không được nghỉ hai tuần mỗi năm, được nhận lương ít hơn, và nếu bạn ốm phải nghỉ việc một ngày thì bạn có thể bị đuổi việc như chơi. Không có lý do gì hết. Không có áo choàng không thấm nước cho bạn đâu. Mang áo mưa của bạn đi nếu bạn không muốn phải tránh mưa.

Bà O’Connell gọi tôi đến bàn của bà ấy và giao cho tôi một chiếc chiếc túi nhỏ có dây da để đeo vào thắt lưng. Bà ấy nói rằng bưu điện đang thiếu xe đạp nên trong chuyến đi phát điện tín đầu tiên này tôi phải đi bộ. Trước tiên tôi sẽ đi đến địa chỉ xa nhất, sau đó sẽ phát tới những địa chỉ gần hơn, và tôi sẽ không được đi cả ngày. Bà ấy sẽ có mặt ở bưu điện để xem tôi đi phát sáu bức điện hết bao nhiêu thời gian cho dù tôi đi bộ đi nữa. Tôi sẽ không được ghé vào một quán rượu hay một hiệu sách nào hết và cũng không được ghé về nhà uống trà và nếu tôi mà ghé vào đâu thì họ sẽ phát hiện ra ngay. Tôi sẽ không được phép dừng lại ở một nhà thờ nào để cầu nguyện. Nếu trời mưa thì tôi cũng vẫn phải đi. Đi phát những bức điện và không được ẻo lả.

Một bức điện đề địa chỉ người nhận là bà Clohessy ở bến Arthur và đó chính là mẹ của Paddy.

Trông thấy tôi bà ấy nói:

- Cháu đấy ư, Frankie McCourt? Lạy Chúa, bác không ngờ cháu đã bằng từng này rồi. Vào đi, vào trong đi.

Bà ấy mặc một cái váy hoa sặc sỡ và đi một đôi giày mới bóng loáng. Có hai đứa trẻ đang ngồi trên sàn chơi với chiếc tàu hỏa đồ choi. Trên bàn có một ấm trà, mấy cái cốc có đĩa lót, một bình sữa, một chiẽc bánh mì, bơ, mứt. Cạnh ô cửa sổ trước đây không kê gì giờ có hai chiếc giường. Chiếc giường to ở góc nhà giờ bỏ không và chắc chắn bà Clohessy biết tôi băn khoăn điều gì. Bà ấy nói:

Ông ấy đi rồi, nhưng không phải là chết đâu. Đi Anh với Paddy rồi. Cháu uống trà và ăn một miếng bánh đi. Cháu cần ăn uống, xin Chúa hãy giúp chúng con. Trông cháu như một người sống sót sau nạn đói ấy. Ăn bánh và mứt đi nào. Hồi còn ở nhà, thằng Paddy nhắc đến cháu luôn, còn ông Dennis, ông chồng tội nghiệp của bác thì không bao giờ quên được cái hôm ông ấy ốm phải nằm trên giường, mẹ cháu đã đến hát cho ông ấy nghe. Bây giờ ông ấy đang ở Anh làm bánh sandwich cho một tiệm ăn và tuần nào cũng gửi về cho bác mấy shilling. Chắc cháu không hiểu người Anh nghĩ thế nào mà lại đi thuê một người mắc bệnh lao và giao cho ông ấy công việc làm bánh. Paddy cũng có một việc làm tốt trong một quán rượu ở Cricklewood. Nếu không phải vì Paddy đã trèo tường vào lấy cái lưỡi ấy thì ông Dennis giờ này vẫn còn ở đây. Cái lưỡi ư? Dennis thèm ăn thủ cừu hầm bắp cải và khoai tây nên bác vét mấy shilling cuối cùng và đến cửa hàng thịt nhà Barry mua các thứ về nấu cho ông ấy. Bác luộc cái thủ cừu chưa nhừ thì ông ấy đã đòi ăn. Lúc ấy ông ấy nằm trên giường rên rỉ đòi ăn thủ cừu như thể ông ấy là ma ấy và khi bác lấy thủ cừu ra đĩa đưa tới cho ông ấy, ông ấy sướng rơn lên và chén sạch cả cái thủ ấy. Ăn xong ông ấy bảo bác: “Mary này, cái lưỡi đâu?” Lưỡi nào - Bác hỏi. Cái lưỡi cừu ấy. Con cừu nào sinh ra mà chẳng có lưỡi nếu không làm sao cừu kêu be be be được và cái thủ cừu này không có lưỡi mình ạ. Hãy đến gặp Barry và đòi cái lưỡi cừu đi.

Vậy là bác đến gặp Barry và ông ta nói: “Con cừu chết tiệt đó lúc bị dắt đến đây cứ kêu be be khiến tôi lộn ruột đến mức tôi cắt phéng cái lưỡi nó quẳng cho chó ăn và thế là con chó của tôi từ lúc ăn cái lưỡi cừu cũng lại kêu be be. Nếu con chó không thôi kêu thì tôi sẽ cắt lưỡi nó quẳng cho mèo ăn”.

Bác về nhà và thấy ông Dennis nhà bác đang phát điên phát cuồng lên ở trên giường. Ông ấy gào: “Tôi muốn cái lưỡi cừu đó. Bao nhiêu chất bổ đều ở cái lưỡi đó cả.” Cháu không thể ngờ được đâu, tối hôm đó cái thằng Paddy nhà bác, thằng bạn của cháu ấy, nó đến nhà Barry, trèo tường vào nhà ông ta, cắt cái lưỡi của cái đầu cừu treo lủng lẳng trên tường nhà ông ta và mang về cho ông bố tội nghiệp đang kêu gào trên giường. Tất nhiên là bác phải luộc cái lưỡi đó lên và cho muối vào cho ông ấy ăn và Chúa phù hộ cho ông Dennis nhà bác, ông ấy ăn hết tiệt và nằm vật ra một lát rồi tung chăn vùng dậy, đứng sừng sững ở trên giường tuyên bố với mọi người rằng dù bị lao hay không, ông ấy cũng không chịu chết trên cái giường đó, nếu có chết thì ông ấy sẽ chết dưới bom của bọn Đức trong khi ông ấy đi kiếm tiền nuôi gia đình.

Bà Clohessy nói:

Nhờ ơn Chúa và Đức Mẹ lòng lành của Người, cuối cùng nhà bác cũng có đủ tiền để mua thức ăn và giày. Cháu sẽ không đoán được thằng Paddy nhà bác gặp ai ở Anh đâu. Brendan Quigley, cái thằng bọn cháu vẫn gọi là thằng Hay Hỏi ấy. Nó làm việc ở bên ấy và đang dành dụm tiền để đến Canada như Nelson Eddy vẫn hát “Anh sẽ gọi em ooh ooh oohh”. Frank này, mẹ cháu thế nào? Mẹ cháu ổn. Không, mẹ cháu không ổn đâu. Bác đã nhìn thấy mẹ cháu ở Bệnh xá miễn phí và bác thấy mẹ cháu trông còn đáng ngại hơn ông Dennis nhà bác hồi ông ấy ốm liệt giường. Cháu phải chú ý tới người mẹ khốn khổ của cháu, Frank ạ. Cháu trông cũng đáng ngại lắm, mắt cháu đỏ quá. Đây bác bồi dưỡng cho cháu đây. Ba xu. Mua kẹo mà ăn.

Cuối tuần đó bà ƠConnell phát cho tôi tuần lương đầu tiên, một bảng, đồng bảng đầu tiên của tôi. Tôi chạy như bay xuống cầu thang và chạy thẳng tới đường ƠConnell, đường phố chính, nơi có những ngọn đèn sáng choang và có nhiều người đang trên đường đi làm về, những người có tiền lương trong túi áo giống như tôi. Tôi muốn họ biết rằng tôi cũng giống họ, tôi là một người đàn ông, tôi có một bảng. Tôi đi lên theo một bên đường rồi đi xuống theo bên kia với hy vọng mọi người sẽ chú ý đến tôi. Chẳng ai thèm chú ý đến tôi cả. Tôi muốn giơ tờ một bảng của tôi lên mà vẫy để mọi người phải trố mắt ra và nói: “Xem kìa, anh công nhân Frankie McCourt có hẳn một bảng rồi đấy.”

Giờ là tối thứ Sáu và tôi có thể làm bất cứ việc gì tôi thích. Tôi có thể ăn cá tẩm bột chiên và có thể đến rạp Lyric xem phim. Không, không còn phải đến rạp Lyric nữa. Tôi không tội gì mà ngồi trong cái rạp ấy giữa những người luôn la hét và gào rú trước cảnh thổ dân da đỏ giết tướng Custer và cảnh người châu Phi săn đuổi Tarzan trong rừng. Giờ đây tôi có thể tới rạp Savoy, có thể trả sáu xu để được ngồi ở hàng ghế đầu nơi có toàn những người của tầng lớp trên, những người vừa xem phim vừa ăn sôcôla và lấy tay che miệng khi cười. Sau khi xem phim xong tôi có thể uống trà và ăn bánh tại nhà hàng ở tầng trên.

Michael gọi tôi từ bên kia đường. Nó đói và nó muốn được đến nhà bác Abbot xin bánh mì ăn và muốn ngủ lại đó luôn để khỏi phải đi bộ về nhà Laman. Tôi bảo nó khỏi phải lo chuyện bánh mì. Chúng tôi đến quán cà phê Coliseum gọi cá tẩm bột chiên, nước chanh, và tất cả những gì em tôi muốn, và sau đó chúng tôi đi xem phim Yankie Doodle Dandy và vừa xem phim vừa ăn hai thanh sôcôla to bự. Xem phim xong chúng tôi đi uống trà và ăn bánh rồi hát và nhảy múa suốt dọc đường về nhà bác Abbot. Micheal bảo với tôi rằng ở Mỹ chắc là thích lắm vì người ta chẳng có việc gì khác để làm ngoài việc hát và nhảy múa. Nó đang buồn ngủ nhưng nó nói một ngày nào đó nó sẽ sang Mỹ hát và nhảy và nó bảo tôi nhớ giúp nó đi sang bên đó và khi nó ngủ rồi tôi bắt đầu nghĩ về nước Mỹ và nghĩ cách tiết kiệm tiền để đi Mỹ thay vì phung phí tiền vào món cá tẩm bột chiên, vào trà và bánh sữa. Tôi phải dành dụm mấy xu trong số tiền một bảng này bởi vì nếu không tôi sẽ phải sống ở Limerick này mãi mãi. Bây giờ tôi mười bốn tuổi rồi và nếu tuần nào tôi cũng để ra được một ít tiền thì chắc chắn đến năm tôi hai mươi tuổi tôi sẽ có đủ tiền đi Mỹ.

Trong số những bức điện tôi phải đi đưa có những bức điện được gửi đến các văn phòng, các cửa hàng, các nhà máy nơi tôi chẳng hy vọng được người ta thưởng cho vài xu lẻ. Các nhân viên ở những nơi ấy hờ hững cầm lấy những bức điện mà chẳng thèm nhìn bạn và cũng chẳng nói được một lời cám ơn. Có những bức điện được chuyển tới cho những nhà giàu ở đường Ennis và đường Bắc Circula và tôi cũng chẳng hòng nhận một xu từ những người giàu đó. Các cô giúp việc chẳng khác gì các nhân viên vãn phòng, họ chẳng buồn nhìn bạn và chẳng cảm ơn. Có những bức điện gửi tới những linh mục và các xơ và những người ấy cũng có người giúp việc, cho dù họ vẫn nói nghèo là cao quý. Nếu bạn đợi tiền bồi dưỡng từ những linh mục hay các xơ thì bạn có mà đợi đến chết ở bậc cửa nhà họ. Có những bức điện gửi tới những người ở ngoại ô cách thành phố đến vài dặm, những nông dân sống trong những cái ngõ đầy bùn và có những con chó chỉ chực đớp chân bạn. Có những bức điện gửi tới cho những người giàu sống trong những ngôi nhà lớn có cổng giống như một trạm gác và có tường bao kéo dài cả mấy dặm. Những người gác cổng của những nhà giàu này vẫy bạn vào và bạn phải đạp xe hàng dặm qua những thảm cỏ, những thảm hoa, những đài phun nước mới đến được ngôi nhà lớn của họ. Nếu thời tiết đẹp thì họ chơi crò-kê, chơi những trò choi của người theo đạo Tin lành, hoặc đi tản bộ, nói chuyện và cười, xúng xính trong những bộ váy hoa và áo cộc tay có đính những chiếc cúc màu vàng lấp lánh và nhìn họ bạn sẽ không bao giờ biết là đang có chiến tranh. Có những chiếc xe hơi Bentley và những chiếc Rolls-Royce đậu ở bên ngoài những cái cửa lớn nơi một cô hầu xuất hiện và bảo bạn đi vòng ra lối cửa dành cho người làm nếu bạn lơ ngơ không biết.

Những người sống trong những ngôi nhà lớn đó nói giọng Anh và họ không có thói quen thưởng cho những đứa đưa điện tín.

Những người hay thường cho những đứa con trai đưa điện tín là những bà góa, vợ những mục sư đạo Tin lành và người nghèo nói chung. Các bà góa biết khi nào thì những giấy lĩnh tiền qua đường bưu điện do chính phủ Anh gửi sẽ đến tay họ và họ thường ở bên cửa sổ đợi.

Những người đàn ông Ailen làm việc ở Anh gửi tiền về qua đường bưu điện vào các tối thứ Sáu và ngày thứ Bảy và đó là thời điểm chúng tôi nhận được những khoản tiền thưởng dễ chịu. Chúng tôi bận cuống cả chân vì cứ chuyển hết chuyên điện này tới chuyến điện khác.

Những ngõ nghèo nhất Limerick là những ngõ ở Irishtown, ở Mungret, nghèo hơn cả những ngõ ở Roden và ở O’Keeffe hay bất cứ ngõ nghèo nào tôi đã từng sống. Có những con ngõ với những nhà thờ nhỏ nằm sâu ở trong. Những người mẹ nghèo đứng trước cửa than vãn khi họ vừa húp cạn bát cháo loãng của mình. Những đứa trẻ thì tha thẩn thả những con thuyền giấy hoặc những vỏ bao diêm trên những vũng nước bẩn thỉu.

Khi bạn đạp xe vào một con ngõ như thế đám trẻ con thi nhau gọi: “Điện đến rồi, điện đến rồi”. Chúng chạy đến vây lấy bạn còn những người đàn bà thì đợi trước cửa nhà. Nếu bạn đưa một bức điện cho một thằng nhỏ để nó mang về cho mẹ thì nó chẳng khác gì người anh hùng của gia đình. Những đứa bé gái biết cơ hội lấy điện tín thuộc về bọn con trai mặc dầu nếu chúng không có anh em trai thì chúng cũng có thể ra nhận. Những người đàn bà đứng ở cửa sẽ gọi với ra rằng giờ họ không có xu nào và bảo bạn ngày mai hãy nhớ đến lấy tiền thưởng, và rằng Chúa phù hộ cho bạn.

Bà O’Connell và cô Barry ở bưu điện ngày nào cũng

nhắc chúng tôi rằng công việc của chúng tôi là đưa những bức điện và chỉ thế thôi. Chúng tôi không được phép làm gì thêm, không được tiện thể đi mua hàng hoặc đi đưa tin cho người ta. Họ không quan tâm cho dù người ta đang hấp hối ở trên giường. Họ không quan tâm nếu người ta bị cụt chân bị mất trí hay phải bò trên sàn. Chúng lôi chỉ được phép đưa điện rồi đi. Bà ƠConnell nói: “Tôi biết tất cả những việc các cậu làm, tất cả, vì dân ở Limerick này để mắt đến các cậu và tôi có những ghi chép về các cậu trong cái ngăn kéo này”.

- Đúng là một chỗ tốt để cất những ghi chép, - Toby Mackey thì thầm.

Nhưng bà O’Connel và cô Barry đâu biết được sự thể thế nào khi bạn vào trong ngõ, gõ cửa một căn nhà và bạn nghe thấy có tiếng ai đó ở trong nhà bảo bạn cứ vào và khi bạn vào trong bạn thấy trong nhà chẳng có đèn đóm gì hết và bạn thấy trên một cái giường có một đống giẻ rách và từ trong cái đống ấy có tiếng nói yếu ớt vọng ra: “Cậu làm ơn đến cửa hàng hộ tôi với. Tôi đói không chịu được và tôi sẩn sàng đổi hai con mắt của tôi lấy một cốc trà” và bạn nỡ lòng nào nói rằng bạn bận và cứ thế lên xe mà đạp đi bỏ mặc cái đống giẻ rách ở đó với bức điện lĩnh tiền hoàn toàn chẳng có giá trị gì bởi vì cái đống giẻ rách kia đâu có ra khỏi giường mà đến bưu điện lĩnh những đồng tiền chết tiệt đó được.

Bạn sẽ làm gì đây?

Người ta quy định bạn không bao giờ được lĩnh tiền hộ người khác nếu không bạn sẽ mất việc. Nhưng bạn sẽ làm gì khi một ông già đã từng chiến đấu trong cuộc chiến tranh Boer nói với bạn rằng ông ấy bị cụt cả hai chân và ông ấy sẽ không bao giờ quên ơn nếu bạn đến gặp Paddy Considine ở bưu điện trình bày hoàn cảnh giúp ông ấy để Paddy cho bạn lĩnh tiền hộ và sau đó bạn hãy giữ lại cho mình hai shilling. Ông Paddy bảo không có vấn đề gì nhưng dặn tôi không được nói cho ai biết chuyện nếu không tôi sẽ nhừ đòn. Ông già cụt chân đó nói rằng ông ấy biết bạn còn phải đi đưa nhiều bức điện khác nhưng ông ấy cầu khẩn bạn tối hãy quay lại đi mua cho ông ấy vài thứ cần thiết và ông ấy rõ ràng là sắp chết rét trong ngôi nhà lạnh lẽo ấy. Ông ấy ngồi trên một cái ghế tựa ở góc nhà quấn chăn quanh người và cái bô bên cạnh cái ghế thì thối đến nỗi làm bạn phải nôn mửa và khi bạn nhìn ông già đó ngồi trong góc nhà tối tàm bạn chỉ muốn có một vòi nước nóng để bạn có thể tắm rửa cho ông ấy và cho ông ấy ăn giăm bông, trứng, cháo khoai tây nấu với bơ và hành.

Tôi muốn đưa ông già cùng đống giẻ rách ở trên giường của ông ấy đến một ngôi nhà thôn quê rộng rãi đầy ánh sáng mặt trời nơi có những con chim bay lượn xập xòe ngoài cửa sổ và có tiếng suối róc rách.

Bà Spillane ở ngõ Pump gần đường Carey có hai đứa con sinh đôi đều bị tật nguyền. Đầu chúng thì to, người thì bé tẹo, và chân thì ngắn ngủn. Cả ngày chúng ngồi nhìn bếp lửa và hỏi: “Bố đâu?”. Chúng nói tiếng Anh như những người khác nhưng chúng bập bẹ một cách khó khăn nên thứ tiếng Anh chúng nói biến dạng thành một thứ ngôn ngữ của riêng chúng khiến người nghe khó mà hiểu được. Chúng nói: “Hung sup tea tea sup hung”. Bà Spillane bảo câu đó có nghĩa là: “Bao giờ mới ăn tối?”. Bà ấy nói rằng nếu mỗi tháng chồng bà ấy gửi về được bốn bảng thì may cho bà ấy lắm rồi và rằng bà ấy không thể chịu đựng nổi khi người ở Bệnh xá miễn phí cứ đem việc bà ấy có chồng đang ở Anh ra để sỉ nhục bà ấy. Bà ấy kể rằng hai đứa trẻ sinh đôi chỉ mới lên bốn và chúng rất thông minh cho dù chúng không thể đi lại được. Bà ấy nói:

Nếu hai đứa trẻ mà tự đi lại được, nếu chúng bình thường như những đứa trẻ khác thì tôi đã gói ghém sang Anh để thoát khỏi cái đất nước khốn nạn đã đấu tranh bao nhiêu năm vì tự do để rồi chúng ta thì khốn khổ thế này còn de Valera thì ung dung ở trong dinh của ông ta ở Dublin, đồ con hoang bẩn thỉu ấy và cả lũ chính trị gia đều phải xuống địa ngục.

Tôi muốn đưa cả bà Spillane và hai đứa con tật nguyền của bà ấy đến căn nhà nông thôn rộng rãi kia cùng với đống giẻ rách và ông già cụt chân và tắm rửa cho họ và để họ ngồi sưởi nắng nghe chim hót và nghe suối reo.

Tôi không thể bỏ đống giẻ rách lại một mình với một giấy lĩnh tiền vô tích sự bởi vì đống giẻ rách đó là một bà già, bà Gertrude Daly, một bà già quằn quại với đủ loại bệnh mà bạn có thể nhiễm ở các ngõ nghèo Limerick, viêm khớp, thấp khớp, rụng tóc, rách mũi, và bạn không thể tin vào mắt mình khi bà già đó ngồi dậy từ đống giẻ rách và mỉm cười với bạn và để lộ ra những chiếc răng trắng bóng lấp lánh trong bóng tối, răng thật của bà ấy và chúng thật hoàn hảo.

Bà già ấy nói:

Răng thật của tôi đấy, khi nào tôi thôi rữa ở dưới mồ thì một trăm năm sau người ta vẫn thấy răng của tôi trắng bóng và tôi sẽ được phong thánh.

Con trai của bà ấy gửi qua đường bưu điện cho bà ấy ba bảng. Trong bức điện chuyển tiền còn có mấy chữ: “Chúc mừng sinh nhật mẹ, con trai của mẹ, Teddy”. Bà ấy nói với tôi:

Thật lạ là nó vẫn tiết kiệm được từng ấy tiền, cái thằng con chết tiệt của tôi, nó đi với tất cả những con điếm ở Piccadilly.

Bà ấy bảo tôi làm ơn đi lĩnh tiền hộ bà ấy và mua cho bà ấy một ít whisky Baby Powers, một ổ bánh mì, một cân mỡ, bảy củ khoai tây, mỗi củ dùng cho một ngày trong tuần. Bà ấy nhờ tôi luộc một củ khoai tây cho bà ấy, đánh nhừ nó rồi cho một ít mỡ vào, và bà ấy nhờ tôi đưa cho bà ấy một lát bánh mì, lấy cho bà ấy một chút nước đê bà ấy uống cùng với whisky. Bà ấy nhờ tôi đến cửa hàng dược của ông O’Connor mua hộ bà ấy ít thuốc mỡ để bôi vết thương và một bánh xà phòng để bà ấy tắm rửa và bà ấy nói sẽ không bao giờ quên ơn tôi, sẽ cầu nguyện cho tôi và nhất định đòi tôi phải nhận hai shilling.

Không, cháu không lấy đâu, thưa bà. Cầm lấy đi cháu. Cầm đi mà. Cháu đã giúp bà già này bao nhiêu việc. Cháu không thể cầm tiền của bà, bà ạ, bà như thế này làm sao cháu cầm tiền của bà được. Cầm lấy đi nếu không ta sẽ mách với bưu điện và cháu sẽ không được chuyển điện cho ta nữa đâu. Ôi, thôi được. Cháu cảm ơn bà. Chúc ngủ ngon, con trai. Hãy đối xử tốt với mẹ cháu nhé. Chúc bà ngủ ngon, bà Daly.

Năm học mới bắt đầu vào tháng Chín và cứ vài hôm Michael lại rẽ vào nhà bác Abbot trước khi đi bộ về nhà Laman. Hôm nào trời mưa nó xin ở lại đó và thế là chẳng bao lâu sau nó không muốn về nhà Laman nữa. Nó kêu nó mệt vì cứ phải cuốc bộ hai dặm đến trường rồi lại phải cuốc bộ về với cái bụng đói.

Khi mẹ tôi đến tìm Michael tôi không biết phải nói gì với bà. Tôi không biết phải nhìn bà thế nào và thế là tôi cứ nhìn sang một bên. Mẹ tôi hỏi: “Công việc thế nào?” như thể chẳng có chuyện gì đã xảy ra ở nhà Laman và tôi đáp: “Tốt”. Nếu trời mưa to quá thì mẹ tôi ngủ lại ở phòng nhỏ trên gác với Alphie. Hôm sau mẹ tôi trở về nhà Laman nhưng Michael thì ở lại và cứ thê dần dần mẹ tôi đến với chúng tôi nhiều hơn rồi bà chuyển hẳn đến đó ở.

Bác Abbot trả tiền thuê nhà mỗi tuần. Mẹ tôi lĩnh tiền cứu tế và những phiếu mua thực phẩm nhưng rồi có người mách lẻo thế là Bệnh xá miễn phí cắt khoản cứu tế. Người ta bảo với mẹ tôi rằng nếu con trai bà kiếm được một bảng mỗi tuần thì số tiền đó nhiều hơn cả khoản tiền trợ cấp rồi nên bà đáng lẽ phải tạ ơn trời vì con trai bà có việc làm mới đúng. Giờ tôi phải nộp tiền lương cho mẹ tôi. Mẹ tôi nói: “Một bảng ư? Nắng cũng như mưa con cong mông lên đạp xe khắp thành phố này mà chỉ được trả có thế này thôi sao? ỞMỹ chắc chắn người ta sẽ trả cho con bốn bảng. Và ở New York thì bốn bảng cũng chẳng đủ nuôi một con mèo. Nếu con đi đưa điện tín cho Westem Union ở New York con sẽ kiếm được hai mươi lăm đô la một tuần và sẽ tha hồ mà xúng xính”. Cứ vài tuần mẹ tôi lại để tôi giữ lại vài shilling nhưng nếu tôi đi xem phim hay mua một cuốn sách cũ thì tôi nhẵn túi, tôi sẽ không thể dành dụm để mua vé tàu đi Mỹ được, và đến khi tôi trở thành một người đàn ông hai mươi tuổi tôi vẫn sẽ mắc kẹt ở Limerick này.

Malachy ở Dublin viết thư về nói rằng nó chán ở đó rồi và không muốn cả đời thổi kèn trompet cho một đội quân nhạc. Một tuần sau đó nó trở về và cằn nhằn vì phải nằm chung với Michael, Alphie, và tôi trên một chiếc giường. ở Dublin mình nó chiếm một cái giường có khăn trải và chăn gối tử tế. Bây giờ nó lại quay về với những chiếc áo khoác cũ và chiếc gối ôm mà bạn chỉ cần động tay vào là bông bay lung tung cả. Mẹ tôi bảo thật tội nghiệp cho nó. Bác Abbot có giường riêng của bác ấy, và mẹ tôi thì chiếm phòng nhỏ ở trên gác. Chúng tôi lại đoàn tụ, không còn bị Laman hành hạ nữa. Chúng tôi pha trà, rán bánh, ngồi trên sàn bếp. Bác Abbot bảo chúng tôi: “Không ngồi trên sàn, bàn và ghế để làm gì hả?”. Bác ấy bảo tôi bị dở hơi còn mẹ tôi thì bảo tất cả chúng tôi sẽ chết vì ngồi trên sàn ẩm. Chúng tôi ngồi trên sàn và hát còn mẹ tôi và bác Abbot thì ngồi trên ghế. Mẹ tôi hát bài Đêm nay em có cô đơn không? còn bác Abbot hát bài Đường đến Rasheen và chúng tôi nghe mãi mà vần chẳng hiểu bài hát bác ấy hát nói về điều gì. Chúng tôi ngồi trên sàn và kể những câu chuyện về những điều đã xảy ra, những điều đã không bao giờ xảy ra và những điều sẽ xảy ra khi tất cả chúng tôi sang Mỹ.

ơ bưu điện cũng có những ngày buồn tẻ không có nhiều điện tín để chúng tôi đi đưa và chúng tôi chỉ biết ngồi trên ghế băng nói chuyện. Chúng tôi có thể nói chuyện nhưng không được phép cười. Có Barry nói rằng một lũ đầu đường xó chợ như chúng tôi nên tạ ơn trời vì chúng tôi được trả tiền để ngồi ở đó, rằng chẳng có gì để mà cười hết. Được trả tiền để ngồi và được nói chuyện nhưng không được cười và chỉ cần ai phát ra một tiếng rúc rích là người đó sẽ bị tống cổ ra ngoài và nếu còn tiếp tục rúc rích thì chúng tôi sẽ bị báo lên người chịu trách nhiệm về nhân sự.

Đám con trai ngồi trên ghế xì xào về cô Barry. Tobby Mackey nói: “Con chó cái đó cần tẩy sạch, tẩy sạch. Mẹ mụ ta là một con điếm còn bố mụ ta thì trốn khỏi trại tâm thần với cái của quý đầy mụn.

Những đứa con trai ngồi trên ghế cười phá lên và cô Barry quát:

Tôi đã nói trước là không cười mà. Mackey, cậu nói chuyên vớ vẩn gì thế? Cháu nói rằng hôm nay trời đẹp, nếu chúng cháu được ra ngoài đưa điện thì hay hơn, thưa cô Barry.

Toby Mackey là một nhân viên đưa điện tín tạm thời giống như tôi. Cậu ta đã từng xem một bộ phim có tên là The Front Page và bây giờ cậu ấy muốn một ngày nào đó cậu ấy sẽ đi Mỹ và làm một phóng viên báo can đảm đội mũ phớt và hút xì gà. Lúc nào cậu ấy cũng mang theo trong túi áo một cuốn sổ ghi chép bởi vì một phóng viên giỏi thì phải ghi lại tất tần tật những gì xảy ra. Các sự kiện. Cậu ta phải ghi lại các sự kiện chứ không phải là những bài thơ chết tiệt nói về những nỗi khổ người Anh gây ra cho người Ailen mà bạn nghe thấy từ miệng những gã nốc bia rượu say mèm trong các quán rượu ở Limerick. Cậu ấy ghi lại lượng điện tín cậu ấy đi đưa và số dặm cậu ấy đi. Chúng tôi ngồi trên ghế cố kiềm chế để khỏi cười và cậu ấy nói cho tôi biết rằng nếu mỗi ngày chúng tôi đi đưa bốn mươi bức điện thì một tuần chúng tôi đưa được hai trăm bức và một năm chúng tôi đưa được mười nghìn bức và hai năm làm việc ở bưu điện chúng tôi sẽ đưa được hai mươi nghìn bức. Nếu một tuần chúng tôi đạp xe một trăm hai mươi lăm dặm thì trong hai năm chúng tôi đạp xe mười ba nghìn dặm và tương đương với đi nửa vòng trái đất và như thế thì chả trách mông chúng tôi móp vào chẳng có lấy một tí thịt.

Toby nói rằng không ai biết rõ Limerick như những nhân viên đưa điện tín. Chúng tôi biết tất cả các đại lộ, các phố, các con đường, các ngõ ngách, các dãy nhà, các chỗ hẻo lánh. Toby bảo không có cánh cửa nào ở Limerick mà chúng tôi không biết. Chúng tôi gõ tất cả các loại cửa, cửa sắt, cửa gổ sồi, cửa gỗ dán. Hai mươi nghìn cánh cửa. Chúng tôi gõ, đá, đẩy. Chúng tôi rung và đấm những quả chuông. Chúng tôi huýt sáo và gào: “Điện tín đây, điện tín đây”. Chúng tôi bỏ những bức điện vào các thùng thư, nhét chúng dưới gầm cửa chính, ném chúng qua song cửa sổ. Chúng tôi trèo lên cửa sổ khi người ta liệt giường không dậy được. Chúng tôi đánh nhau với tất cả những con chó muốn biến chúng tôi thành bữa trưa của chúng. Bạn không bao giờ biết trước được chuyện gì xảy ra khi bạn đưa những bức điện cho người ta. Người nhận điện tín cười và hát và nhảy và khóc và rú và khuỵu xuống và ngất đi và bạn chịu chẳng biết họ có tỉnh dậy được mà thưởng cho bạn hay không. Đưa điện tín ở Ailen chẳng giống đưa điện tín ở Mỹ nơi Mickey Rooney đạp xe loanh quanh trong một bộ phim có tiêu đề là Hài kịch tâm lý rồi mọi người vui vẻ và lộn nhào để đưa cho bạn tiền thưởng, mời bạn vào nhà, mời bạn uống trà và ăn bánh.

Toby Mackey tiết lộ rằng trong cuốn sổ của cậu ta có vô sô các sự kiện và cậu ta cóc thèm đánh một cái rắm trước bất cứ sự kiện nào và tôi nghe mà thèm được như cậu ta.

Bà O’Connell biết tôi thích chuyển những bức điện đề địa chỉ người nhận ở ngoại thành và nếu hôm nào đẹp trời thì bà ấy giao cho tôi một chuyến gồm cả mười bức để tôi ở ngoại thành cả buổi sáng và sau bữa cơm trưa tôi mới phải có mặt ở bưu điện. Có những ngày thu đẹp trời và vào những ngày như thế sông Shannon lấp lánh như được dát kim cương còn những cánh đồng thì xanh và long lanh trong sương bạc. Những ngọn khói bay lơ lửng trên những cánh đồng mang theo mùi than bùn ấm cúng. Những đàn bò sữa và cừu nhởn nhơ gặm cỏ trên các cánh đồng. Những con ngựa thích ngóc đầu qua những hàng rào để nhìn người đi qua và tôi dừng lại nói chuyện với chúng một lát bởi vì chúng có những đôi mắt to và những cái mũi dài trông rất thông minh. Thỉnh thoảng hai con chim đứng cách xa nhau trên cánh đồng cất tiếng hót đối và tôi phải dừng lại để nghe chúng và nếu tôi dừng lại đủ lâu thì tôi sẽ thấy những con chim khác cũng hót theo cho tới khi tất cả các cây và các bụi rậm đều rộn tiếng chim. Nếu có một con suối chảy róc rách dưới một cây cầu trên đường đi, có tiếng chim đua nhau hót và tiếng cừu kêu be be thì âm thanh bạn nghe thấy sẽ tuyệt hơn bất cứ âm thanh của một dàn nhạc hòa tấu nào trong phim. Mùi thịt muối xông khói và mùi bắp cải tỏa ra từ một ngôi nhà thôn quê làm tôi muốn nhũn người ra vì đói và tôi phải dừng lại và kiếm những quả dâu đen trên cánh đồng mà nhai cả nửa giờ cho cái dạ dày của tôi khỏi réo. Tôi úp mặt xuống suối và uống những ngụm nước suối lạnh mà cảm thấy ngon hơn cả loại nước chanh ngon nhất.

Sau khi đã đưa xong tất cả các bức điện tôi còn đủ thời gian để đi đến khu nghĩa địa tu viện cổ nơi có mổ mả của những người họ hàng đã khuất về đằng mẹ tôi, những người nhà Guilfoyle và nhà Sheehan, và cũng là nơi mẹ tôi muốn được chôn sau khi qua đời. Từ nơi này tôi có thể nhìn thấy những tàn tích của pháo đài Carrigogunnell và tôi có đủ thời gian đạp xe tới đó, ngồi trên bức tường cao nhất, ngắm con sông Shannon chảy ra biển Đại Tây Dương để rồi từ đó theo dòng chảy đến tận nước Mỹ và ngắm con sông dài tưởng như vô tận đó tôi lại mơ đến cái ngày chính tôi lên tàu đến miền đất hứa ấy.

Đám con trai ở bưu điện bảo rằng tôi phải may mắn lắm mới vớ được bức điện của nhà Carmody bởi vì tôi sẽ kiếm được hẳn một shilling tiền thưởng, số tiền thưởng lớn nhất bạn có được ở Limerick. Tại sao tôi lại được chuyển bức điện ấy cơ chứ? Tôi chỉ là một đứa đưa điện tín mới vào nghề thôi mà. Bọn con trai nói rằng đôi khi Theresa Carmody ra lấy điện. Cô gái ấy bị lao và họ rất sợ sẽ bị lây bệnh. Cô ấy mười bảy tuổi, ra vào viện điều dưỡng như cơm bữa, và chắc chắn cô ấy sẽ chẳng được thấy tuổi mười tám của mình. Đám con trai đó nói rằng những người ốm nặng như Theresa biết rõ mình chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa nên họ rất khao khát tình yêu, những chuyện lãng mạn và mọi thứ. Mọi thứ. Đám con trai đó nói chính bệnh lao khiến người ta thành ra như vậy.

Tôi đạp xe qua những đường phố tháng Mười Một ẩm thấp mà lòng thầm nghĩ đến một shilling tiền thưởng, và khi tôi rẽ vào phố nhà Carmody chiếc xe của tôi bị trượt bánh khiến tôi bị ngã sứt cả mặt và rách cả mu bàn tay. Theresa Camody ra mở cửa. Cô ấy có mái tóc đỏ, có đôi mắt xanh giống như màu của những cánh đồng ở ngoại ô. Hai má cò ấy rất hồng còn da cô ấy thì trắng đến phát sợ. Cô ấy nói:

Ôi, cậu ướt và bị chảy máu nữa kìa. Tôi bị ngã xe đạp. Vào đi. Tôi sẽ lấy thuốc bôi vết thương cho cậu.

Tôi lưỡng lự không biết mình có nên vào hay không. Tôi có thể bị lây bệnh lao và thế là hết đời. Tôi muốn sống đến khi tôi mười lăm tuổi và tôi cũng muốn một shilling tiền thưởng.

Vào đi. Cậu sẽ chết nếu cứ đứng đó mãi.

Cô ấy đặt nước để pha trà. Sau đó cô ấy thấm iốt lên những vết thương của tôi và tôi cố chứng tỏ mình là đàn ông không kêu rên một tiếng. Cô ấy khen:

Cậu rất đàn ông. Vào phòng khách và hong khô quần áo đi. Xem kìa, sao cậu không cởi quần ra và hơ trên giá lò sưởi ấy. Ô, không. Làm đi mà. Được.

Tôi vắt quần lên tấm chắn lò sưởi. Tôi ngồi đó nhìn hơi nước bốc lên mà cảm thấy người rạo rực và tôi chỉ lo cô ấy sẽ quay vào và bắt gặp tôi trong bộ dạng lúng túng.

Cô ấy mang vào một khay gồm bánh mì và mứt cùng hai tách trà. Cô ấy nói:

Lạy Chúa, cậu gầy giơ xương nhưng cũng ra dáng đàn ông đấy.

Cô ấy đặt cái khay và hai tách trà xuống một cái bàn gần lò sưởi và chúng bị bỏ quên ở đó. Cô ấy dẫn tôi đến một chiếc sofa kê sát tường và suốt thời gian ở trên cái ghế đó đầu tôi cứ đầy ắp những ý nghĩ về tội lỗi, về iốt, về bệnh lao và về món tiền thưởng một shilling và nếu đôi mắt xanh của cô ấy và cô ấy trên ghế không dừng lại thì tôi sẽ chết rồi cô ấy khóc và tôi cũng khóc vì tôi không biết điều gì sẽ xảy ra với tôi nếu tôi bị nhiễm vi trùng lao từ miệng cô ấy và tôi như đang bay bổng lên thiên đường, tôi như đang rơi xuống vực thẳm và nếu chuyện này có là một tội lỗi đi chăng nữa thì tôi cũng bất chấp.

Chúng tôi nằm trên ghế cho tới khi cô ấy hỏi:

Cậu không phải đi đưa điện nữa sao?

Khi chúng tôi ngồi dậy cô ấy khóc và nói vẻ bối rối:

Ôi, tôi bị chảy máu. Cô làm sao thế? Tôi nghĩ đó là vì đây là lần đầu của tôi.

Tôi bảo cô ấy ngồi yên đó. Tôi mang chai iốt từ trong bếp ra và thấm vào chỗ chảy máu của cô ấy. Cò ấy nhảy dựng lên, nhảy quanh phòng khách như bị phát cuồng rồi chạy vào bếp dội nước. Lau khô người xong cô ấy nói:

Lạy Chúa, cậu ngây thơ quá. Câu không được đổ iốt lên người con gái như thế đâu. Tôi cứ nghĩ cô bị thương.

Những tuần sau đó tôi vẫn đi đưa điện tín đều. Thỉnh thoảng tôi và Theresa làm chuyện thú vị với nhau trên chiếc sofa trong phòng khách nhà cô ấy nhưng có những ngày cô ấy bị ho và tôi có thể thấy rõ cô ấy yếu đến mức nào. Cô ấy không bao giờ nói với tôi về tình trạng đau yếu của cô ấy. Cô ấy không bao giờ nói với tôi về bệnh lao. Đám con trai ở bưu điện nói với nhau rằng tôi chắc phải vui vẻ lắm với món tiền thưởng một shilling và với Theresa Camody. Tôi không bao giờ nói cho họ biết chuyên thú vị trên chiếc sofa màu xanh. Tôi không bao giờ nói cho họ biết cảm giác đau đớn ùa vào lòng tôi mỗi khi tôi thấy Theresa ra mở cửa với dáng vẻ đau yếu và những khi ấy tất cả những gì tôi muốn làm là pha cho cô ấy tách trà nóng và ngồi trên trường kỷ ôm cô ấy vào lòng.

Một ngày thứ Bảy tôi được giao đưa điên đến cho mẹ của Theresa tại nơi làm việc của bà ấy ở hãng Woolworth. Cố tỏ ra bình thường tôi nói:

Bà Carmody, cháu hay mang điện tín đến cho, cháu nghĩ là cho con gái bà, cô Theresa đúng không nhỉ? Đúng, nó đang nằm viện. Cô ấy ở viện điều dưỡng phải không ạ? Tôi bảo là nó nằm viện mà.

Cũng giống như tất cả mọi người ở Limerick này bà ấy xấu hổ vì bệnh lao, và bà ấy không thưởng cho tôi một xu nào. Tôi đạp xe đến viện điều dưỡng tìm gặp Theresa. Người của viện điều dưỡng nói rằng bạn phải là người thân của bệnh nhân và phải là người lớn mới được phép vào thăm bệnh nhân. Tôi nói với họ rằng tháng Tám là tôi mười lăm tuổi. Họ bảo tôi biến đi đừng làm phiền họ. Tôi đạp xe đến nhà thờ thánh Francis để cầu nguyện cho Theresa. Tôi nhờ thánh Francis nói chuyện với Chúa trời hộ tôi. Nói với Người rằng đó không phải là lỗi của Theresa. Đáng lẽ tôi phải từ chối những bức điện của nhà Therasa. Tôi nhờ thánh nói với Chúa rằng Therasa không phải chịu trách nhiệm về chuyện thú vị trên chiếc sofa đó bởi vì đó là do bệnh lao đã làm cô ấy thành ra như thế. Dù gì thì chuyện đó cũng chẳng thành vấn đề bởi vì tôi yêu Therasa. Tôi yêu cô ấy nhiều như thánh yêu chim, thú và cá và tôi nhờ thánh xin với Chúa trời hãy mang bệnh lao đi khỏi người cô ấy và tôi hứa sẽ không bao giờ đến gần cô ấy nữa.

Thứ Bảy sau đó họ đưa cho tôi một bức điện của nhà Carmody. Đi gần đến nhà Carmody tôi đã nhìn thấy những bức rèm rủ. Tôi nhìn thấy vòng hoa tang bằng nhiễu đen treo ở cánh cửa. Tôi nhìn qua cửa để thấy chiếc sofa màu xanh nơi tôi và Therasa đã có những phút điên cuồng và tôi biết giờ đây cô ấy đang ở dưới địa ngục và tất cả là lỗi ở tôi.

Tôi đút bức điện xuống dưới gầm cửa và đạp xe đến nhà thờ thánh Francis để cầu xin cho linh hồn Therasa được yên nghỉ. Tôi cầu xin dưới chân mọi bức tượng trong nhà thờ, quì trước những cửa sổ bằng kính, quì trước cây thập tự. Tôi thề rằng cả đời tôi sẽ giữ trọn đức tin, niềm hy vọng và sự thánh thiện, sự nghèo khổ, thanh bạch và sự phục tùng.

Hôm sau, Chủ nhật, tôi đi đến bốn lễ Mixa. Tôi làm dấu thánh ba lần. Tôi đọc kinh rôze cả ngày. Tôi cứ đi cả ngày mà chẳng thiết ăn uống gì và bất cứ khi nào tôi tìm được một chỗ vắng là tôi lại ngồi khóc và cầu xin Chúa cùng Đức Mẹ của Người cứu rỗi linh hồn Therasa Carmody.

Hôm thứ Hai tôi theo đoàn đưa tang đến nghĩa địa. Tôi đứng sau một cái cây cách huyệt chôn Therasa một đoạn. Bà Carmody khóc và vật vã. Ông Carmody thì khụt khịt và trông như người mất hồn. Linh mục đọc những lời cầu nguyện bằng tiếng Latin và vẩy nước thánh lên quan tài.

Tôi muốn đến trước mặt linh mục, đến trước mặt ông bà Carmody. Tôi muốn nói với họ rằng chính tôi là người đã đẩy Therasa xuống địa ngục. Họ muốn trừng phạt tôi thế nào cũng được. Chửi rủa tôi cũng được. Mắng nhiếc tôi cũng chẳng sao. Ném đất vào mặt tôi tùy thích. Nhưng tôi vẫn đứng lặng sau gốc cây cho tới khi những người đưa tang ra về và những người đào huyệt lấp đất lên mộ của Theresa.

Sương đã phủ trắng cả chỗ đất mới trên nấm mồ và tôi nghĩ là Theresa ở dưới mồ chắc là lạnh lắm, Theresa tóc đỏ mắt xanh của tôi. Tôi không thể hiểu nổi những cảm xúc đang dâng trào trong lòng nhưng tôi biết chưa bao giờ tôi cảm thấy con tim mình đau đớn như vậy, chưa bao giờ kể cả khi những người trong ngõ hay người thân trong gia đình tôi qua đời và tôi hy vọng không bao giờ phải trải qua nỗi đau này một lần nữa.

Trời đã tối’ Tôi dắt xe đạp ra khỏi nghĩa địa. Tôi còn phải đi đưa những bức điện.