← Quay lại trang sách

Chương 16

Bà O’Connell giao cho tôi những bức điện gửi đến ông Harrington, một người Anh có người vợ vừa mất là người sinh ra ở Limerick. Đám con trai ở bưu điện nói rằng những bức điện an ủi chỉ làm phí thời gian mà thôi. Người ta khóc lóc, rầu rĩ và người ta nghĩ rằng mình được miễn thứ không cần phải thưởng công cho người đưa điện. Họ sẽ mời bạn vào trong nhìn người chết lần cuối và cầu nguyện cho người đó. Nếu họ mời bạn vài giọt rượu cherry và một cái bánh sandwich thì tốt đấy. Ô, không, họ muốn nhận lời cầu nguyện của bạn nhưng bạn chỉ là một thằng bé đưa điện tín thôi và một cái bánh quy chưa ỉu dành cho bạn thì đã là may lắm rồi. Đám con trai vào bưu điện trước chúng tôi mách rằng bạn phải chơi đúng bài mới hòng moi được tiền thưởng của những người rầu rĩ. Nếu người ta bảo bạn vào cầu nguyện bạn phải quì trước thi hài, thở dài thật buồn bã, phải tỏ ra đau đớn, và nên gục mặt xuống khăn trải giường để người ta không nhìn thấy mặt bạn, và phải để vai bạn run run như thể bạn đang suy sụp vì đau đớn, bám lấy mép giường bằng cả hai tay như thể người ta sẽ phải gỡ bạn ra để bạn đi đưa nốt những bức điện, phải làm sao cho má của bạn có dấu vết của nước mắt, và nếu bạn làm đúng như thế rồi mà vẫn không nhận được tiền thương thì chuyến đưa điện tiếp theo đến nhà có người chết bạn chỉ việc đút điện qua gầm cửa hoặc nhét qua đố cửa và để mặc với nỗi buồn của họ mà đi.

Đây không phải là lần đầu tiên tôi chuyển điện tín đến nhà ông Harrington. Ông Harrington luôn bận bịu với công việc của ông ấy ở công ty bảo hiểm và vợ ông ấy rất hào phóng. Nhưng giờ bà ấy không còn nữa và ông Harrington ra mở cửa, mắt ông ấy đỏ và giọng ông ấy khụt khịt. Ông ấy hỏi:

Cậu có phải là người Ailen không?

Người Ailen? Nếu không phải là người Ailen thì tôi đã chẳng cầm một nắm điện tín mà đứng đây. Tôi trả lời:

Vâng, cháu là người Ailen.

Ông ấy bảo tôi:

Vào đi. Hãy để bức điện ở hành lang.

Ông ấy đóng cánh cửa hành lang lại, dùng khóa khóa cẩn thận rồi đút chìa khóa vào túi quần khiến tôi chợt có ý nghĩ rằng người Anh khá kỳ cục.

Cậu muốn thấy vợ tôi một lát, tất nhiên rồi. Hãy vào mà xem các người đã làm gì cô ấy với cái bệnh lao chết tiệt của các người. Một lũ ma cà rồng. Đi theo tôi.

Ông ấy dẫn tôi đi vào bếp và dừng lại đó để lấy một đĩa bánh sandwich và hai chai rượu rồi đi lên gác. Bà Harrington nằm trên giường và tất nhiên là đã chết nhưng trông vẫn rất đẹp với mái tóc vàng óng, làn da trắng, và vẻ mặt thanh thản.

Vợ tôi đấy. Cô ấy là người Ailen nhưng trông không giống người Ailen, ơn Chúa. Cũng như cậu. Người Ailen. Cậu cần uống một chút, tất nhiên. Người Ailen các cậu nốc một hơi là hết cả chai. Cai đi trước khi cậu hét đòi cả chai whisky, cả vại bia đen. Cậu uống gì, whisky hay cherry? Ô, một chút nước cam thôi ạ. Vợ tôi chẳng thích cái thứ nước chua chết tiệt ấy. Cậu uống cherry đi. Nốc hết của cái nước Tây Ban Nha theo phát xít ấy đi.

Tôi uống chỗ rượu cherry ông Harrington rót cho. Ông ấy rót thêm rượu cherry vào cốc của tôi và rót thêm whisky vào cốc của ông ấy. Ông ấy vừa uống vừa nhìn cốc rượu và quát:

Đồ chết tiệt. Whisky đi đâu cả rồi. Ở yên đây. Nghe rõ chưa? Tôi đi ra quán mua thêm một chai whisky nữa. Ở yên đây chờ tôi. Đừng có đi đấy.

Rượu cherry làm tôi thấy hơi chóng mặt. Tôi không biết phải làm gì với một người Anh đang đau khổ. Tôi nhìn bà Harrington và thầm nói với bà ấy: “Bà Harrington, bà nằm đó trông rất đẹp. Nhưng bà là người theo đạo Tin lành, bà bị kết tội rồi, bị đày xuống địa ngục, giống như Theresa vậy. Cha xứ đã nói rằng ngoài đạo Thiên Chúa không có sự cứu rỗi nào hết. Nhưng đợi đã, tôi có thể cứu rỗi linh hồn bà. Rửa tội cho bà theo đạo Thiên Chúa. Chuộc lại tội lỗi tôi đã gây ra cho Theresa. Tôi sẽ đi lấy một chút nước. Ôi, Chúa ơi, cửa bị khóa mất rồi. Tại sao chứ? Có lẽ bà chưa chết đâu nhỉ? Bà chết chưa, bà Harrington? Tôi không sợ đâu mà. Mặt bà lạnh quá. Ôi, đúng là bà chết thật rồi. Tôi sẽ rửa tội cho bà bằng rượu cherry của bọn Tây Ban Nha theo phát xít. Tôi sẽ rửa tội cho bà nhân danh Cha, Con, và...

Mày đang làm cái quái gì thế hả? Tránh xa vợ tao ra, thằng Công giáo ranh con chết tiệt kia. Mày làm cái trò ngớ ngẩn gì thế hả? Mày đã chạm vào người vợ tao rồi hả? Mày đã dám thế hả? Tao sẽ vặn cổ mày. Cháu... cháu,... Nói tiếng Anh đi, đồ cặn bã. Cháu chỉ, chỉ dùng một ít rượu cherry để giúp bà ấy được lên thiên đường thôi mà. Thiên đường ư? Chúng tao đã từng có thiên đường, Ann, tao, con gái Emily của chúng tao. Mày sẽ không bao giờ được nhìn vợ tao bằng cái mắt lợn đỏ ngầu của mày. Ôi, Chúa ơi, tao không thể chịu nổi nữa rồi. Đây, rượu cherry nữa đây. Ô, không, cám ơn. Ô, không cám ơn. Cái giọng Celtic ẻo lả chết tiệt. Người Ailen bọn mày thích rượu của bọn mày. Nó giúp bọn mày bò và tiếp tục cái giọng ẻo lả của bọn mày. Tất nhiên mày muốn ăn. Trông mày như một thằng Công giáo bị bỏ đói ấy. Đây. Bánh đấy. ăn đi. Ô, không, cám ơn. Ô, không, cám ơn. Lại nói thế rồi và chắc để tao phải nhét bánh vào đít mày đây.

Ông ta vẫy vẫy cái bánh trước mặt tôi, và bàn tay chết tiệt của ông ta cứ ấn bánh vào miệng tôi.

Ông ta ngồi phịch xuống một cái ghế tựa, thở hổn hển:

Ôi, lạy Chúa, mình phải làm gì đây chứ? Phải nghỉ một chút đã.

Tôi cảm thấy chướng bụng không chịu nổi. Tôi vội chạy ra cửa sổ, thò đầu ra ngoài và nôn thốc nôn tháo. Ông ta đứng bật dậy, chỉ tay vào tôi và quát:

Mày, mày, Chúa tống mày xuống ngục cho rồi, mày nôn vào khóm hoa hồng của vợ tao.

Ông ta lao tới định vồ lấy tôi, nhưng ông ta vồ trượt và thế là ngã lăn ra sàn. Tôi vội vàng trèo lên cửa sổ, đu ra mép tường. Ông ta chạy đến cửa sổ, túm lấy hai tay tôi. Tôi nhảy bừa xuống dưới và ngã trên khóm hoa hồng, trên đám sandwich và cherry tôi vừa mới nôn ra. Tôi bị gai hồng đâm đau nhói. Ông ta ở trong cửa sổ thò đầu ra quát tôi quay lại. Ông ta dọa sẽ tố cáo tôi với bưu điện. Ông ta cầm chai whisky và chai cherry nện vào lưng tôi.

Ông ta ném vào người tôi nào là ly, bánh sandwich, hộp phấn, hộp kem, chổi cọ và bất kể thứ gì ông ta vớ được trên bàn trang điểm của vợ óng ta.

Tôi nhảy vội lên xe và loạng choạng đạp qua các con phố, choáng váng vì rượu cherry và vì đau. Bà O’Connell mắng tôi té tát:

Có bảy bức điên gửi tới mỗi một địa chỉ mà cậu đi mất cả một ngày trời. Cháu đã làm mà. Cháu đã làm. Cậu đã làm. Cậu đã làm. Uống say mèm đó chính là cái cậu đã làm. Say mèm. người đàn ông tốt bụng ấy đã gọi điện tới đây, ông Halmington, một người Anh ăn nói dễ nghe như James Mason ấy. Ông ấy đã để cậu vào cầu nguyện cho người vợ đáng thương của ông ấy thế mà cậu lại nôn cherry và giăm bông ra cửa sổ nhà người ta. Tội nghiệp mẹ của cậu. Bà ấy đã sinh ra loại người nào thế không biết. Ông ta cứ bắt cháu phải ăn bánh kẹp giâm bông và uống cherry. Bắt cậu phải ư? Lạy Chúa, đúng là một người tốt. Bắt cậu phải ăn. Ông Harrington là một người Anh lịch sự và không có lý nào ông ấy lại nói điêu và tôi nói cho cậu biết chúng tôi không muốn loại người như cậu làm việc ở đây, có ai chê bánh kẹp giăm bông và rượu cherry đâu cơ chứ, nào hãy nộp túi và xe đạp rồi đi khỏi đây đi. Nhưng cháu cần công việc này. Cháu phải kiếm tiền để đi Mỹ. Đi Mỹ ư? Nước Mỹ đã mạt vận đâu mà phải chứa loại người như cậu.

Tôi bước thất thểu trên đường phố Limerick. Tôi muốn quay lại ném gạch vào cửa sổ nhà ông Harrington. Không. Vì người đã khuất tôi không thể làm thế. Tôi sẽ đi qua cầu Sarsfield và tìm một bụi cây nào đó bên bờ sông mà nằm. Tôi không biết làm thế nào tôi có thể về nhà và nói với mẹ tôi rằng tôi đã mất việc. Tôi phải về nhà. Tôi phải nói cho mẹ tôi biết tất cả. Tôi không thể ở ngoài bờ sông cả đêm được. Mẹ tôi sẽ phát điên lên vì lo lắng mất.

Mẹ tôi xin bưu điện nhận tôi trở lại làm. Họ nói không. Họ chưa từng nghe thấy một chuyện như thế. Nhân viên đưa điện tín mà lại đi hành hạ một xác chết. Nhân viên đưa điện tín mà lại đi nôn rượu cherry và bánh kẹp giâm bông làm xấu cảnh quan nhà người ta. Một nhân viên như thế không bao giờ được đặt chân đến bưu điện nữa. Không bao giờ.

Mẹ tôi cây cục được một bức thư của Cha xứ. Cha xứ chấp bút đề nghị bưu điện nhận tôi trở lại. Bưu điện không thể từ chối Cha xứ. Họ cho tôi quay trở lại làm việc đúng đến khi tôi mười sáu tuổi, không thêm một phút. Bà O’Connell nói với tôi:

- Hãy nghĩ đến những gì người Anh đã làm với chúng ta trong suốt tám trăm năm mà xem, vào thời đó người ta không có quyền phàn nàn về một cái bánh kẹp giăm bông và rượu cherry. Hãy so sánh với thời kỳ xảy ra nạn đói mà xem, cậu đang ở đâu hả? Nếu ông chồng tội nghiệp của tôi mà còn sống thì thế nào ông ấy cũng bảo cậu đáng đánh đòn đấy, Frank McCourt ạ.

Chủ nhật nào tôi cũng thề ràng tôi sẽ đi xưng tội và sẽ kể với linh mục chuyên bẩn thỉu tôi đã làm ở nhà, ở pháo đài Carrigogunnell.

Tôi sẽ kể với linh mục về Theresa Carmody và việc tôi đã đẩy cô ấy xuống địa ngục, và thế là tôi sẽ hết đời, sẽ bị khai trừ khỏi giáo hội.

Theresa là một nỗi dằn vặt lớn đối với tôi. Mỗi khi đi đưa điện qua con phố nhà cô ấy hay mỗi khi đi qua nghĩa trang là tôi lại cảm thấy tội lỗi đang lớn dần lên trong tôi giống như một ung nhọt và nếu tôi không đi xưng tội sớm thì tôi sẽ chẳng là gì hơn là một ung nhọt để cho người ta chỉ tay vào và nói với nhau: “Đấy, thằng Frank McCourt đấy, cái thằng đã làm chuyện bẩn thỉu khiến Theresa Carmody phải xuống địa ngục”.

Những Chủ nhật tôi nhìn mọi người đi dự lễ Ban thánh thể, nhận ân Chúa, trở về chỗ ngồi, thanh thản, thoải mái, sẵn sàng chết bất kỳ lúc nào và sẽ lên thiên đường hoặc về nhà thưởng thức bánh kẹp giăm bông và trứng mà không gợn chút lo lắng.

Tôi mệt mỏi vì mình là một kẻ mang tội tồi tệ nhất ở Limerick. Tôi muốn xóa bỏ tội lỗi đó và muốn được ăn giăm bông, trứng và không muốn bị dằn vặt. Tôi muốn được như mọi người.

Các linh mục luôn nói rằng lòng nhân từ của Chúa là vô hạn nhưng làm sao một linh mục có thể rửa tội cho một kẻ như tôi, một kẻ đang đi đưa điện tín mà lại làm chuyện thú vị trên một chiếc sofa màu xanh với một cô gái sắp chết vì lao phổi.

Tôi đạp xe đi đưa điện tín vòng quanh Limerick và thấy nhà thờ nào tôi cũng dừng lại. Đến nhà thờ thánh Francis. Tôi quì trước tượng thánh Francis và cầu xin thánh cứu giúp tôi nhưng tôi nghĩ thánh đã chán tôi lắm rồi. Tôi quì cùng mọi người trên bục xưng tội nhưng khi đến lượt tôi xưng tội tôi cảm thấy không thể thở được, cảm thấy tim mình bị bóp nghẹt, cảm thấy lạnh toát cả người và tôi bỏ chạy khỏi nhà thờ.

Tôi thề đến Giáng sinh tôi sẽ đi xưng tội. Tôi không làm được. Lễ Phục sinh. Tôi không làm được. Nhiều tuần rồi nhiều tháng trôi qua và thấm thoắt Theresa đã qua đời được một năm. Tôi định sẽ đến dự lễ tưởng niệm cô ấy nhưng tôi không thể. Giờ tôi đã mười lãm tuổi và tôi đi qua những nhà thờ mà không ghé vào nữa. Tôi sẽ phải đợi tới khi tôi sang Mỹ nơi có những linh mục như linh mục Bing Crosby trong phim Tôi di đường tôi người sẽ không nỡ lòng nào đá tôi khỏi bục xưng tội như những linh mục ở Limerick.

Tôi vẫn mang tội lỗi đó trong mình, một ung nhọt, và tôi hy vọng nó không giết chết tôi trước khi tôi gặp được một linh mục ở Mỹ.

Có một bức điện gửi cho một bà già, bà Brigid Finucane. Bà ấy hỏi tôi:

- Cậu bao nhiêu tuổi?

Cháu mười lăm tuổi rưỡi ạ? Đủ bé để làm một thằng ngốc và đủ lớn để hiểu biết hơn. Cậu tháo vát chứ? Cậu luôn thông minh chứ? Cháu biết đọc và viết, thưa bà. Ô, ở trại tâm thần ngoài kia cũng có khối người biết đọc biết viết. Cậu biết viết thư chứ? Vâng.

Bà ấy muốn tôi viết thư cho các khách hàng của bà ấy. Nếu bạn cần comlê hay váy cho con bạn thì bạn có thể đến tìm bà ấy. Bà ấy sẽ đưa cho bạn một tấm phiếu để bạn đến một cửa hàng và họ sẽ đưa quần áo cho bạn. Bà ấy được cửa hàng tính giá ưu đãi nhưng bà ấy thanh toán với bạn theo giá chung có kèm lãi suất. Bạn sẽ trả cho bà ấy theo tuần. Một số khách hàng không trả nợ đúng hạn và họ phải nhận thư đe dọa. Bà ấy bảo sẽ trả tôi ba xu cho mỗi bức thư và nếu thư tôi viết khiến người ta trả nợ cho bà ấy thì tôi sẽ được nhận thêm ba xu nữa. Nếu tôi đồng ý thì tôi có thể đến nhà bà ấy làm việc vào các tối thứ Năm và thứ Sáu, và tôi phải mang theo giấy và phong bì đến.

Tôi cần việc làm đó. Tôi muốn đi Mỹ. Nhưng tôi không có tiền mua giấy và phong bì. Hôm sau đi đưa điện đến cửa hàng Woolworth tôi đã tìm được đáp án cho vấn đề đó, một gian hàng toàn giấy trắng và phong bì. Tôi không có tiền nên tôi đành phải mượn người ta vậy. Nhưng bằng cách nào đây? Ngay trước cửa hiệu có hai con chó đang quấn lấy nhau sau khi làm chuyện thú vị. Chúng vừa rên ư ử vừa chạy vòng quanh. Khách hàng và nhân viên bán hàng cười tủm tỉm rồi giả vờ nhìn đi chỗ khác và trong khi họ còn mải giả vờ tôi liền rút một tập giấy và một tập phong bì giấu vào trong áo rồi thản nhiên đi ra cửa và lên xe đạp phóng đi.

Bà Finucane nhìn tôi bằng con mắt đầy nghi ngờ:

Cậu kiếm được loại giấy đẹp đấy. Của mẹ cậu à? Khi nào có tiền công cậu sẽ mua trả đúng không? Vâng.

Từ giờ tôi sẽ không vào nhà bà Finucane bằng lối cửa trước nữa. Sau nhà bà ấy có một con ngõ và tôi sẽ vào bằng cửa sau nhà bà ấy để mọi người không nhìn thấy tôi.

Bà Finucane lấy cuốn sổ cái ra và đọc cho tôi tên cùng dịa chỉ của sáu khách hàng không trả nợ đúng hạn. Bà ấy ra lệnh cho tôi dọa họ, dọa cho họ khiếp để họ phải nôn tiển ra.

Lá thư đầu tiên tôi viết như sau:

Kính gửi ông O’Brien

Vì ông trì hoãn mãi không thanh toán nợ cho tôi nên tôi buộc phải viện đến pháp luật. Con trai ông, Michael, xúng xính đi đây di đó trong bộ comlê tôi ứng tiền ra mua giúp trong khi tôi chỉ khoác trên người mỗi một mảnh bao tải để giữ cho hồn không lìa khỏi xác. Tôi chắc chắn rằng ông không muốn chết dần chết mòn sau chấn song của nhà tù Limerick xa gia dinh và bạn bè.

Hẹn gặp ông ở tòa án.

Brigid Finucane

Bà Finucane khen tôi đã viết được một bức thư rất mạnh mẽ, rằng những gì tôi viết khá hơn những thứ vớ vẩn trên tờ Limerick Leader. Bà ấy hỏi:

Từ “vì” đúng là một từ khủng bố. Cậu dùng từ đó là muốn nói gì? Cháu nghĩ nó có nghĩa đây là cơ hội cuối cùng của ông.

Tôi viết thêm năm bức thư nữa và bà ấy đưa cho tôi tiền để mua tem. Trên đường đến bưu điện tôi chợt nghĩ: Tại sao mình phải tốn tiền mua tem trong khi mình có hai chân để đưa thư đến từng nhà nhỉ? Khi bạn nghèo túng thì một bức thư xiết nợ là một lá thư xiết nợ cho dù nó đến nhà bạn bằng cách nào đi chăng nữa.

Tôi chạy khắp Limerick đút những bức thư đe dọa xuống gầm cửa nhà người ta mà thầm cầu cho không ai nhìn thấy tôi.

Tuần sau đó bà Finucane rú lên vì sướng. Bốn trong số các khách hàng nhận thư đe dọa đã mang tiền đến trả. Bà Funicane hỉ hả bảo tôi:

Nào, ngồi xuống đi, viết nữa đi, làm cho bọn họ vãi linh hồn đi.

Càng ngày những lá thư đe dọa của tôi càng sắc bén. Tôi bắt đầu ném vào đó những từ mà chính tôi cũng không hiểu.

Kính gửi ông O’Brien,

Vì ông không chịu khuất phục trước lời cánh báo về việc kiện tụng không thể tránh khỏi mà chúng tôi đã thông báo với ông trong thư trước nên chúng tôi sẽ bàn thảo với luật sư của chúng tôi ở Dublin về vụ việc này.

Ngay tuần sau bà O’Brien mang tiền đến trả. Bà ấy vừa run rẩy vừa rân rấn nước mắt hứa rằng bà ấy sẽ không bao giờ nợ quá hạn nữa.

Cứ tối thứ Sáu là bà Finucane lại sai tôi ra quán mua một chai rượu cherry. Bà ấy nói:

- Cậu chưa đủ lớn để uống cherry. Cậu có thể uống trà nhưng mà hãy pha lại ấm trà hồi sáng mà uống. Không, cậu không được đụng đến bánh mì vì bánh mì bây giờ đắt lắm. Bánh mì ư? Nếu hôm nay cho cậu bánh mì thì thế nào ngày mai cậu cũng đòi ăn trứng cho mà xem.

Bà ấy ngồi lắc lư bên lò sưởi, uống rượu, đếm tiền trong chiếc ví để trong lòng, ghi số tiền thu được vào sổ, cất tất cả vào một cái hòm khóa lại và để xuống gầm giường bà ấy nằm. Ngà ngà say bà ấy bảo tôi rằng thật dễ chịu khi có một ít tiền gửi đến cho giáo hội làm lễ Mixa để người ta cầu nguyện cho linh hồn của mình. Bà ấy rất vui khi nghĩ rằng nhiều năm sau khi bà ấy chết các linh mục vẫn làm lễ Mixa cho bà ấy.

Thỉnh thoảng bà ấy ngủ ngay trên ghế và nếu cái ví của bà ấy rơi xuống sàn thì thế nào tôi cũng kiếm được vài shilling cho việc làm ngoài giờ và việc viết được những từ mới có sức thuyết phục. Số tiền dành cho các linh mục và các lễ Mixa sẽ ít đi nhưng một linh hồn thì cần bao nhiêu lễ Mixa cơ chứ vả lại sau cái cách giáo hội đóng sập cửa trước mặt tôi thì chẳng lẽ tôi không đáng được hưởng vài bảng hay sao? Họ không nhận tôi làm một lễ sinh, không cho tôi học trung học. Tôi cóc cần. Tôi có khoản tiền tiết kiệm gửi ở bưu điện và nếu tôi cứ tiếp tục viết những bức thư đe dọa thành công, tiếp tục kiếm được vài shilling ngớ ngẩn từ ví của bà Finucane và tiết kiệm được tiền mua tem thì tôi sẽ có đủ tiền để đi Mỹ. Nếu gia đình tôi có chết đói đi nữa thì tôi cũng quyết không đụng đến số tiền đó.

Thường thì tôi phải viết những bức thư đe dọa gửi đến nhũng người bà con hoặc bạn bè của mẹ tôi và tôi rất lo bị họ phát hiện. Họ phàn nàn với mẹ tôi: “Con chó cái đó, mụ già Finucane ở Irishtown ấy, mụ ta đã gửi thư đe dọa tôi. Gửi cái thư không đầu không cuối với những từ tôi chưa từng nghe thấy ấy rồi thì không biết mụ ta sẽ bị loại ma quỉ nào dưới địa ngục nó hành đây. Cái đứa viết bức thư đó còn tồi tệ hơn cả tên phản đạo Judas hay bất cứ tên tay sai cho Anh nào”.

Mẹ tôi bảo rằng ai viết những bức thư như thế đáng bị ném vào vạc dầu sôi và đáng bị người mù rút móng tay.

Tôi rất thông cảm với những khó khăn của họ nhưng tôi không có cách nào khác để kiếm tiền sang Mỹ. Tôi biết một ngày nào đó tôi sẽ trở thành một người Mỹ giàu có và tôi sẽ gửi về cho gia đình tôi hàng trăm đô la và gia đình tôi sẽ không bao giờ phải lo lắng vì những lá thư đe dọa nữa.

Mấy đứa con trai đưa điện tín tạm thời kháo nhau về kỳ thi tuyển nhân viên chính thức diễn ra vào tháng Tám. Bà O’Connell nói với tôi:

Cậu nên dự thi, Frank McCourt ạ. Cậu có đầu óc đấy và chắc là cậu sẽ đỗ thôi. Cậu sẽ sớm trở thành một bưu tá thực thụ và như thế sẽ giúp mẹ cậu nhiều đấy.

Mẹ tôi cũng nói tôi nên thi để trở thành một bưu tá, để dành tiền đi Mỹ và làm bưu tá ở bên đó thì sẽ có một cuộc sống dễ chịu.

Một Chủ nhật tôi đưa điện tín đến quán South và thấy bác Pa đang ngồi ở đó, vẫn đen như mọi khi. Bác ấy nói:

Làm một chai nước chanh đi, Frankie, mà cháu sắp mười sáu tuổi rồi hay là làm một vại bia nhé? Nước chanh thôi ạ, cảm ơn bác Pa. Cháu muốn khi nào tròn mười sáu tuổi mói uống vại bia đầu tiên chứ gì? Vâng, nhưng bố cháu làm gì có nhà mà mua vại bia đầu tiên cho cháu. Đừng lo về chuyện đó. Bác biết bố cháu mua cho cháu mới đúng nhưng không sao, bác sẽ mua cho cháu. Nếu bác có một cậu con trai thì bác cũng sẽ làm thế. Trước hôm cháu mười sáu tuổi cháu hãy đến đây. Vâng. Bác nghe nói cháu sẽ thi vào bưu điện hả? Vâng. Tại sao cháu lại làm một việc như thế? Đó là một công việc tốt và cháu sẽ trở thành một người đưa thư và sẽ có lương hưu. Ô, lương hưu cái mông bác mày đây này. Mới mười sáu tuổi đầu đã nói đến lương hưu. Mày định lừa bác mày hả? Mày có nghe bác mày nói gì không, Frankie? Lương hưu cái mông bác mày đây này. Nếu mày thi đỗ thì mày sẽ chôn chân cả đời ở bưu điện. Mày sẽ cưới một cò Brigid và sẽ có năm nhóc và sẽ trồng hoa hồng trong vườn nhà mày. Cái đầu mày sẽ chết trước khi mày ba mươi tuổi và thậm chí trước đó mày đã trở thành thằng đàn ông bất lực. Hãy suy nghĩ cho kỹ và tự quyết định lấy cháu ạ và quên cái an toàn và những bức bối trước mắt đi cháu ạ. Mày có nghe bác nói không đấy, Frankie? Cháu nghe rõ cả, thưa bác Pa. Thầy Hallorant cũng nói như vậy. Ông ấy nói gì? Ông ấy bảo hãy tự quyết định. Ông ấy nói đúng. Cuộc sống của cháu thì cháu phải tự quyết định, Frankie ạ. Cháu vẫn định đi Mỹ đấy chứ? Vâng, thưa bác Pa.

Hôm bưu điện tổ chức thi tôi được nghỉ làm. Đi qua phố O’Connell tôi thấy có một tấm biển có ghi:

“CẦN TUYỂN NAM THANH NIÊN THÁO VÁT, VIẾT CHỮ ĐẸP, LÀM TÍNH THẠO, GẶP QUẢN LÝ McCAFFEY, CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN EASONS”.

Tôi đứng bên ngoài trụ sở của Hội thanh niên Tin lành nơi diễn ra cuộc thi. Những đứa con trai từ khắp Limerick lũ lượt bước lên bậc tam cấp để vào phòng thi và một người đàn ông đứng ở cửa ra vào vừa phát cho họ giấy trắng và bút viết vừa luôn miệng giục họ khẩn trương. Tôi nhìn người đàn ông đó, tôi nghĩ đến những gì bác Pa đã nói, tôi nghĩ tới tấm biển trước cửa vãn phòng công ty Easons. Tôi không muốn bước qua cánh cửa đó, không muốn thi đỗ bởi nếu tôi thi đỗ thì tôi sẽ trở thành một bưu tá mặc đồng phục rồi trở thành một người đưa thư và một người bán tem trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Tôi sẽ bị mắc kẹt ở Limerick này mãi mãi.

Người đàn ông đứng ở của phòng thi nói:

Này cậu kia có muốn vào hay không hay là cứ đứng nghệt mặt ra đó mãi hả?

Tôi muốn rủa ông ta hôn mông tôi, nhưng tôi vẫn còn làm việc ở bưu điện mấy tuần nữa và tôi sợ ông ấy sẽ tô cáo tôi. Tôi lắc đầu và bước về phía con phô đang cần một thanh niên tháo vát.

Người quản lý, ông McCaffrey, nói:

Tôi muốn xem chữ viết của cậu. Ngồi xuống cái bàn kia. Viết tên và địa chỉ của cậu ra và viết một đoạn trình bày lý do tại sao cậu muốn xin vào làm ở đây và cho biết hướng phấn đấu bằng sự kiên trì và siêng năng của cậu tại công ty Easons, nơi sẽ tạo một cơ hội lớn cho một thanh niên biết nhìn về phía trước và biết giữ sườn của cậu ta tránh xa cám dỗ của tội lỗi.

Anh em tôi ngồi lặng im bên bếp, Malachy, Michael, Alphie, và tôi. Chúng tôi uống trà còn Alphie thì nhai mẩu bánh mì chấm đường cuối cùng. Nó quệt tay làm đường dính lên mũi lên má khiến chúng tỏi buồn cười. Nhưng chúng tôi không thể cười to nếu không mẹ tôi sẽ dậy bắt tôi và Malachy đi học và chúng tôi sẽ bị phạt đến chết mất vì tội đi học muộn. Chúng tôi không cười lâu được, không còn bánh nữa mà chúng tôi thì đói, cả bốn anh em tôi đều đói. Chúng tôi không được bà Kathleen bán chịu hàng cho nữa. Chúng tôi cũng không thể bén mảng đến gần bà tôi được. Hễ trông thấy mặt chúng tôi là bà tôi lại mắng mỏ chúng tôi vì bố tôi là người miền Bắc và vì bố tôi ở Anh không gửi một xu nào về cho mẹ con tôi. Bà tôi nói chúng tôi có thể chết đói vì sự thiếu quan tâm của bố tôi. Bà tôi bảo như thế mẹ tôi sẽ được một bài học vì ai bảo mẹ tôi lại đi lấy một người đàn ông miền Bắc, một người tính khí kỳ quặc.