← Quay lại trang sách

Chương 18

Tôi mười bảy, mười tám, sắp sửa mười chín tuổi, làm việc tại văn phòng của Easons, viết những bức thư đe dọa cho bà Finucane, người giờ đây luôn miệng than rằng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa và rằng càng bỏ tiền ra làm nhiều lễ Mixa thì càng cảm thấy nhẹ nhõm. Bà ấy bỏ tiền vào các phong bì và sai tôi mang đến các nhà thờ quanh Limerick, gõ cửa nhà các linh mục, đưa phong bì tiền cùng để nghị làm lễ Mixa cho bà Finucane. Bà ấy muốn được tất cả các linh mục cầu nguyện cho mình trừ những linh mục dòng Tên. Bà ấy bảo rằng những linh mục dòng Tên chẳng được tích sự gì, rằng họ có đầu nhưng không có tim. Bà ấy bảo bà ấy không bao giờ đưa cho họ một xu vì từng xu bạn đưa cho họ đều bị một cuốn sách viễn tưởng hay một chai rượu nuốt chửng.

Bà ấy gửi tiền đi, bà ấy hy vọng người ta sẽ làm lễ Mixa cho bà ấy, nhưng bà ấy không thể chắc được và nếu bà ấy không chắc thì tội gì tôi lại phải giao hết số tiền bà ấy đưa cho các linh mục trong khi tôi đang cần tiền để đi Mỹ và nếu tôi giữ lại vài bảng và gửi vào bưu điện thì cũng có khác gì đâu và nếu tôi cầu nguyện cho bà Finucane và thắp nến cho linh hồn bà ấy thì chẳng lẽ Chúa trời lại không nghe cho dù tôi là một kẻ có tội đi nữa.

Một tháng nữa là tôi mười chín tuổi. Tôi chỉ cần thêm vài bảng là đủ tiền mua vé và cũng cần thêm vài bảng để tiêu tạm trong khi tôi còn chân ướt chân ráo ở đất Mỹ.

Tối thứ Sáu trước ngày sinh nhật lần thứ mười chín của tôi bà Finucane sai tôi đi mua một chai cherry. Khi tôi trở về bà ấy đã chết trên ghế, mắt mở trừng trừng, và cái ví của bà ấy ở dưới sàn cũng mở. Tôi không thể nhìn bà ấy nhưng tôi nhặt lấy cho mình một xâu tiền. Mười bảy bảng. Tôi tìm chiếc chìa khóa hòm và mở chiếc hòm bà ấy để trên gác. Tôi lấy bốn mươi bảng trong tổng số mấy trăm bảng bà ấy cất trong hòm và trong cuốn sổ ghi nợ. Tôi sẽ thêm số tiền này vào khoản tiết kiệm của tôi ở bưu điện và như thế là tôi có đủ tiền đi Mỹ rồi. Lúc rời nhà bà ấy tiện tay tôi xách luôn chai cherry để nó khỏi bị bỏ phí.

Tôi ngồi bên bờ sông Shannon uống rượu cherry của bà Finucane. Tôi thấy trong cuốn sổ ghi nợ có cả tên bác Aggie. Bác ấy nợ chín bảng. Đó có thể là số tiền bác ấy đã dùng mua quần áo cho tôi dạo nọ nhưng bác ấy sẽ không bao giờ phải trả khoản nợ đó nữa bởi vì tôi sẽ quẳng cuốn sổ của bà Finucane xuống sông. Tôi tiếc là mình không bao giờ có thể nói cho bác Aggie biết rằng tôi đã tiết kiệm cho bác ấy chín bảng. Tôi tiếc là tôi đã viết những bức thư đe dọa gửi tới những người nghèo sống trong những ngõ hẻm ở Limerick, những người cùng cảnh với chúng tôi, nhưng bây giờ cuốn sổ ghi nợ không còn nữa, không ai còn phải trả nợ cho bà Finucane. Tôi ước gì tôi có thể nói với họ rằng tôi là Robin Hood của họ.

Thêm một ngụm cherry nữa. Tôi sẽ dành ra một hoặc hai bảng để làm lễ Mixa cho linh hồn bà Finucane. Cuốn sổ của bà ấy đang trôi theo sông Shannon ra phía Đại Tây Dương và tôi biết một ngày không xa tôi cũng theo nó xuôi dòng ra đi.

Người đàn ông tôi gặp ở đại lý du lịch O’Riordan nói rằng ông ta không thể sắp xếp cho tôi sang Mỹ bằng đường hàng không được trừ khi tôi sang London trước mà như thế thì sẽ rất tốn kém. Ông ấy có thể thu xếp cho tôi lên một chiếc tàu có tên là ỉrish Oak, con tàu sẽ rời Cork trong vài tuần nữa. Ông ấy nói:

Chín ngày trên biển, tháng Chín, tháng Mười, thời điểm tốt nhất trong năm, ca bin riêng, mười ba hành khách, thức ăn hảo hạng, nghỉ ngơi thoải mái và anh phải bỏ ra năm mươi lăm bảng cho tất cả những cái đó, anh có đủ tiền không?

Tỏi đáp:

Tôi có đủ.

Tôi nói với mẹ tôi rằng vài tuần nữa tôi sẽ đi và mẹ tôi khóc. Michael nói:

Rồi cả nhà chúng ta sẽ sang bên đó chứ? Ừ.

Alphie nói:

Anh sẽ gửi cho em một cái mũ cao bồi và một cái mà ném đi rồi nó lại bật lại, anh nhé?

Michael bảo với nó rằng đó là cái boomerang và phải đi Australia mới kiếm được cái đó chứ ở Mỹ không có cái đó.

Alphie cãi rằng ở Mỹ thứ gì mà chẳng có và thế là hai đứa cãi nhau về Mỹ và về Australia và về cái boomerang cho tới khi mẹ tôi bực quá phải lên tiếng:

Lạy Chúa, anh chúng mày sắp bỏ đi xa thế mà hai đứa mày lại đứng đó mà cãi nhau về cái boomerang chết tiệt. Chúng mày có thôi đi không hả?

Mẹ tôi nói tối trước hôm tôi đi chúng tôi sẽ tổ chức một bữa tiệc. Ngày xưa người ta hay tổ chức những bữa tiệc gọi là American wakes mỗi khi có người sắp sang Mỹ bởi vì gia đình của người ra đi chẳng mong được gặp lại người thân của mình một lần nào nữa. Mẹ tôi bảo thật tiếc là Malachy ở bên Anh không thể về được nhưng nhờ Chúa và Đức Mẹ lòng lành của Người rồi thế nào cũng có ngày cả nhà tôi sẽ đoàn tụ ở bên Mỹ.

Những ngày tôi nghỉ làm, tôi tha thẩn đi bộ quanh Limerick thăm lại tất cả những nơi tôi đã từng sống, phố Windmill, phố Hartstonge, ngõ Roden, đường Rosbrien, phố Little Barrington, nơi mà thực ra chỉ là một ngõ hẻm. Tôi đứng lặng nhìn ngôi nhà nơi Theresa Carmody đã từng sống cho tới khi mẹ cô ấy bước ra và hỏi tôi cần gì. Tôi ngồi trước mộ Oliver và mộ Eugene ở khu nghĩa địa thánh Patrick và băng qua đường đến nghĩa địa Lawrence nơi Theresa yên nghỉ. Đi đến đâu tôi cũng nghe thấy tiếng nói của những người đã khuất và tôi tự hỏi không biết linh hồn họ có thể theo tôi vượt Đại Tây Dương được hay không.

Tôi muốn thu những hình ảnh của Limerick vào trong đầu vì nhỡ đâu tôi không bao giờ có dịp trở về nữa. Tôi ngồi trong nhà thờ thánh Joseph và nhà thờ dòng Cứu Thế và tự bảo mình hãy nhìn cho thật kỹ bởi vì có thể tôi sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy những cảnh đó một lần nữa. Tôi xuôi xuống phố Herry để từ biệt thánh Francis dẫu rằng tôi biết ở Mỹ tôi vẫn có thể nói được với thánh.

Giờ đây có những ngày tôi không muốn đi Mỹ chút nào. Nhiều lúc tôi muốn đi thẳng đến đại lý du lịch O’Riordan và lấy lại năm mươi lăm bảng. Tôi có thể đợi đến năm tôi hai mươi tuổi và đến lúc đó Malachy có thể đi cùng tôi để tôi biết rằng ít nhất ở New York tôi cũng có một người thân. Tôi có những cảm giác lạ lùng và thỉnh thoảng khi ngồi bên bếp cùng với mẹ và các em tôi tôi cảm thấy những giọt nước mắt đang lặng lẽ lăn xuống má và tôi thấy xấu hổ vì sự yếu đuối của mình. Thoạt tiên mẹ tôi cười nhưng khi Michael nói tất cả chúng tôi rồi sẽ đi Mỹ, bố tôi cũng sang đó, Malachy cũng sang đó, thì mẹ tôi khóc và chúng tôi ngồi đó, bốn chúng tôi, cùng sụt sịt.

Mẹ tôi nói đây là lần đầu tiên chúng tôi tổ chức một bữa tiệc và thật buồn là bạn có tiệc khi các con bạn lần lượt rời bỏ bạn, Malachy đi Anh, Frank thì đi Mỹ. Mẹ tôi dành ra mấy shilling từ số tiền công chăm sóc ông Sliney để mua bánh mì, giăm bông, thịt muối, pho mát, nước chanh và mấy chai bia đen. Bác Pa mang đến mấy chai bia đen, whisky và một ít cherry để dành riêng cho bác Aggie còn bác Aggie thì mang tới một cái bánh có rắc nho khô do bác ấy tự làm. Bác Abbot thì ôm đến sáu chai bia đen và nói: “Được rồi, Frankie, mày cứ việc uống và chỉ cần để cho tao một hay hai chai để tao hát một bài thôi”.

Bác ấy hát Đường đến Rasheen. Tay bác ấy cầm chai bia, mắt bác ấy nhắm nghiền, và bài hát thoát ra từ cổ họng bác ấy thành một chuỗi âm thanh não nề. Lời bài hát chẳng rõ nghĩa và mọi người chẳng hiểu sao những giọt nước mắt lại chảy ra từ hai con mắt nhắm nghiền của bác ấy. Alphie thì thầm vào tai tôi: “Sao bác ấy lại khóc vì một bài hát chẳng có nghĩa gì anh nhỉ?”.

Tôi làm sao mà biết được.

Bác Abbot kết thúc bài hát của mình, mở mắt ra, đưa tay quệt má và nói với chúng tôi rằng đó là một bài hát buồn nói về một chàng trai Ailen đi sang Mỹ và bị bọn găng-tơ ở đó bắn chết trước khi một linh mục có thể chạm vào sườn cậu ta và bác ấy dặn tôi rằng nếu tôi không ở gần một linh mục thì đừng có để bị bắn chết.

Bác Pa nói rằng đó là bài hát buồn nhất mà bác ấy từng nghe và bảo chúng tôi hát bài gì đó vui vui một chút. Bác ấy bảo mẹ tôi hát và mẹ tôi chối đây đẩy bảo rằng mình không có hơi.

Thôi nào, Angela, hát đi mà. Một chút một, chỉ một chút thôi mà. Thôi được. Em sẽ cố.

Tất cả chúng tôi cùng hòa theo bài hát buồn của mẹ tôi:

Tình yêu của mẹ là một phước lành

Cho dù anh phiêu bạt nơi đâu.

Hãy giữ lấy mẹ mình khi anh còn có mẹ,

Khi mẹ ra đi rồi anh sẽ rất nhớ thương.

Bác Pa nói bài hát sau còn buồn hơn cả bài hát trước và bảo rằng chúng tôi đang biến bữa tiệc thành một bữa wakes thật và rằng nếu không ai hát một bài gì đó để thay đổi không khí thì bác ấy sẽ uống cho say vì buồn.

Bác Aggie chợt nhớ ra rằng đang có nguyệt thực.

Chúng tôi đứng trong ngõ nhìn vầng trăng đang biến mất sau một vòng tròn đen. Bác Pa nói:

Đó là dấu hiệu tốt để cháu đi sang Mỹ đấy, Frankie ạ.

Bác Aggie phản đối:

Không, đó là điềm xấu. Tôi đã đọc một tờ báo có nói rằng trăng như thế kia là điềm báo ngày tận thế.

Bác Pa nói:

Ô, tận thế cái mông tôi đây này. Đây mới là sự khởi đầu của Frankie McCourt. Vài năm nữa nó sẽ trở về béo tốt bảnh bao như bất kỳ anh chàng người Mỹ nào và sẽ đưa về một cô gái có hàm răng trắng.

Mẹ tôi rên: “Ôi, không, anh Pa, không, ôi, không” và thế là mọi người dẫn mẹ tôi vào trong nhà cho mẹ tôi uống một chút cherry của Tây Ban Nha.

Xế chiều hôm đó con tàu Irish Oak rời Cork, đi qua Kinsale và mũi Clear, rồi qua mũi Mizen, mũi đất cuối cùng của Ailen mà chỉ có Chúa mới biết bao giờ tôi mới thấy lại.

Rõ ràng đáng ra tôi nên ở lại, thi làm nhân viên chính thức của bưu điện, ổn định cuộc sống. Đáng ra tôi có thể kiếm đủ tiền để Michael và Alphie không phải đến trường với cái bụng đói và đôi giày rách. Chúng tôi có thể chuyển ra sống ở một con phố hay một đại lộ nơi có những ngôi nhà có vườn. Đáng ra tôi nên dự kỳ thi đó để mẹ tôi không bao giờ còn phải đổ bô cho ông Sliney hay cho bất cứ ai nữa.

Bây giờ thì quá muộn rồi. Tôi đang ở trên tàu bỏ lại Ailen ở đằng sau trong bóng tối và thật là ngốc khi tôi cứ đứng lặng trên boong tàu nhìn lại và nghĩ đến gia đình tôi và Limerick, Malachy và bố tôi ở Anh và thậm chí còn ngốc hơn khi trong đầu tôi cứ vang lên giai điệu của bài hát về Roddy McCorley và bài hát nói về điệu nhảy Kerry mà mẹ tôi đã hát cho ông Clohessy khi ông ấy nằm trên giường ho sù sụ và giờ đây tôi muốn quay lại Ailen nơi tôi có mẹ và các em tôi, có bác Aggie không được dễ chịu lắm và bác Pa, người đã chúc tôi vại bia đầu tiên và đây một linh mục đang đứng bên tôi và nhìn tôi bằng ánh mắt dò hỏi.

Ông ấy là người Limerick nhưng ông ấy đã ở Los Angeles nhiều năm nên giờ đây ông ấy nói giọng Mỹ. Ông ấy biết cái cảm giác khi người ta rời Ailen bởi vì chính ông ấy cũng đã trải qua nó và không bao giờ có thể quên nổi. Ông ấy nói rằng khi bạn sống ở Los Angeles dưới ánh mặt trời rực rỡ bạn chỉ thiết tha cầu Chúa ban cho bạn một ngày mưa Limerick.

Vị linh mục đó ngồi cạnh tôi tại bàn của thuyền phó và ông thuyền phó đó thông báo với chúng tôi rằng lịch trình của con tàu đã bị thay đổi nên thay vì đi thẳng đến New York chúng tôi sẽ đi đến Motreal.

Ba ngày lênh đênh trên biển và lịch trình lại bị thay đổi. Người ta nói dù thế nào thì cuối cùng chúng tôi cũng sẽ đến được New York.

Ba hành khách người Mỹ phàn nàn: “Bọn Ailen chết tiệt. Họ không thể đi thẳng đến đó được sao?”.

Ngay trước hôm tàu đi New York lịch trình lại bị thay đổi. Chúng tôi phải đến một nơi ở gần sông Hudson có tên là Albany.

Những người Mỹ bực tức nói: “Albany à? Đến Albany chết tiệt đó ư? Việc quái gì chúng ta phải đi trên cái tàu Ailen chết dẫm này chứ? Chết tiệt thật”.

Vị linh mục bảo tôi đừng để ý đến họ làm gì. Không phải tất cả người Mỹ đều giống họ.

Trời rạng sáng chúng tôi đi đến New York. Tôi ngỡ mình đang ở trong một bộ phim, rằng bộ phim đó sẽ kết thúc và đèn sẽ bật sáng trong rạp Lyric. Vị linh mục muốn giới thiệu với tôi đủ thứ nhưng ông ấy không cần phải làm vây. Tôi có thể dễ dàng nhận ra tượng Nữ Thần Tự Do, đảo Ellis, tòa nhà Empire State, tòa nhà Chrysler, cầu Brooklyn. Có hàng ngàn chiếc xe hơi đang chạy qua cầu và ánh mặt trời phủ lên vạn vật một màu vàng ấm áp. Những người Mỹ giàu có đội mũ có chóp cao đeo cà vạt chắc hẳn đang đi về nhà với những người phụ nữ xinh đẹp có hàm răng trắng của họ. Những người khác chắc là đang đến làm việc ở những văn phòng tiện nghi và chắc chẳng ai lo lắng gì về sự đời hết.

Mấy hành khách Mỹ đang cãi nhau với thuyền trưởng thì một người đàn ông từ một chiếc tàu kéo trèo lên boong tàu. Một người Mỹ nói bằng giọng cáu gắt:

Tại sao chúng tôi không thể xuống ở đây? Tại sao chúng tôi phải ngồi trên tàu đến Albany chết tiệt đó?

Người đàn ông kia nói:

Vì các ông là hành khách trên một con tàu và thuyền trưởng là thuyền trưởng và chúng tôi không có thủ tục để đưa các ông vào bờ. Ô, ra thế đấy. Đây là một đất nước tự do và chúng tôi là công dân Mỹ. Thê sao? Ô, các ông đang ở trên một chiếc tàu Ailen với một thuyền trưởng người Ailen và các ông phải tuân theo ông ấy nếu không xin mời cứ việc bơi vào bờ.

Ông ta trèo xuống thang và chiếc tàu kéo từ từ rời đi, còn chúng tôi thì tiếp tục đi tới Hudson ngang qua Manhattan, đi dưới cầu George Washington, đi qua hàng trăm con tàu Tự Do đã tùng đóng góp trong chiến tranh để rồi giờ đây buông neo nằm đó chờ đợi ngày mục nát.

Thuyền trưởng thông báo rằng thủy triều buộc tàu phải bỏ neo qua đêm ở một nơi gọi là Poughkeepsie. VỊ linh mục nói cho tôi biết rằng đó là một cái tên Ân Độ còn những hành khách Mỹ thì gọi nơi đó là Poughkeepsie chết tiệt.

Khi trời tối một chiếc thuyền nhỏ cập vào mạn tàu và một giọng Ailen từ dưới thuyền gọi lên:

Chào mọi người. Lạy Chúa, tôi nhìn thấy cờ Ailen và tôi cho thuyền ra đây. Tôi không tin nổi vào mắt mình. Xin chào.

Ông ta mời thuyền phó vào bờ uống chút gì đó và còn nói rằng thuyền phó có thể mang theo bạn và cả linh mục cũng được mời.

Vị linh mục mời tôi đi cùng và thế là chúng tôi trèo xuống thang để lên chiếc thuyền nhỏ cùng với thuyền phó và người phụ trách điện đài của tàu. Người đàn ông trên thuyền nhỏ nói ông ta là Tim Boyle ở Mayo và rằng Chúa giúp chúng tôi bởi vì chúng tôi bỏ neo ở đó đúng lúc họ đang có tiệc và tất cả chúng tôi đều được mời. Ông ta đưa chúng tôi đến một ngôi nhà có bãi cỏ, đài phun nước và những con chim màu hồng đứng bằng một chân. Trong một căn phòng được gọi là phòng khách có năm người phụ nữ. Tất cả họ đều có tóc thẳng và đều mặc váy dài trông rất sáng sủa. Họ cầm những ly rượu trong tay và mỉm cười khoe những chiếc răng trắng bóng. Một người trong số họ lên tiếng:

Xin mời vào. Pawty vừa mới bắt đầu.

Pawty. Họ gọi bữa tiệc là như vậy đấy và tôi không biết liệu vài năm tới tôi có nói giống họ hay không.

Tim Boyle nói cho chúng tôi biết rằng những phụ nữ đó mở tiệc vui với nhau trong khi chồng họ đi săn nai qua đêm, và một phụ nữ tên là Betty nói:

Đúng vậy. Những người bạn thân trong chiến tranh. Cuộc chiến đó kết thúc gần năm năm rồi mà họ vẫn không thể quên nổi nó nên cứ cuối tuần lại rủ nhau đi săn thú và uống Rheingold cho đến khi họ không còn nhìn nổi. Cái cuộc chiến chết tiệt đó, xin lỗi.

Linh mục thì thầm vào tai tôi:

Đây là những phụ nữ hư hỏng. Chúng ta không nên ở đây lâu.

Một phụ nữ hỏi tôi:

Cậu thích uống gì nào? Chúng tôi có đủ loại đồ uống. Tên cậu là gì? Frank McCourt. Một cái tên hay đấy. Cậu uống một chút đi. Đàn ông Ailen ai mà chẳng biết uống. Cậu uống bia nhé? Vâng. Thật là lịch sự. Tôi thích người Ailen. Mẹ tôi mang nửa dòng máu Ailen đấy vì thế tôi cũng có chút ít chất Ailen trong người, một phần tư đúng không? Tôi chẳng biết nữa. Tên tôi là Fieda. Bia của cậu đây, chàng trai dễ thương.

Vị linh mục ngồi ở cuối chiếc sofa thứ mà người Mỹ gọi là “couch” và hai người phụ nữ đang nói chuyện với ông ấy. Betty hỏi thuyền phó có muốn thăm các phòng trong nhà không và ông ta trả lời là có. Một phụ nữ khác bảo với người phụ trách điện đài của tàu rằng anh ta nên đi xem cây cối trong vườn, nên ngắm những bông hoa đẹp ở ngoài đó. Frieda hỏi tôi cảm thấy trong người thế nào và tôi trả lời là tôi khỏe nhưng tôi muốn vào nhà vệ sinh một lát.

Vào đâu? Nhà vệ sinh. Ô, cậu muốn nói là phòng tắm. Đi lối này, chàng trai, đi xuống cuối hành lang kia.

Cô ta đẩy cánh cửa ra, bật đèn, hôn má tôi và ghé vào tai tôi nói thầm rằng nếu tôi cần gì thì cô ấy ở ngay bên ngoài.

Tôi đứng trong đó đi tiểu và lúng túng không biết vào một thời điểm như thế này thì tôi cần gì và việc phụ nữ đứng đợi ở bên ngoài trong khi bạn đi tiểu có phải là một việc bình thường ở đất Mỹ này hay không.

Tôi đi tiểu xong, xả nước và đi ra. Cồ ta cầm tay tôi và dẫn tôi vào một phòng ngủ, bỏ chiếc ly trên tay xuống, khóa trái cửa lại, đẩy tôi xuống chiếc giường trong phòng. Bàn tay cô ta lần tìm cửa quần của tôi. Cô ta rủa: “Những cái cúc chết tiệt, ở Ailen người ta không bán khóa quần sao?”. Cô ta cởi cúc quần của tôi và trườn lên người tôi và Chúa ơi tôi như đang ở trên thiên đường vậy và đúng lúc đó có tiếng gõ cửa và tôi nghe thấy tiếng linh mục hỏi tôi có ở trong phòng không và Frieda để ngón tay lên môi làm ra hiệu cho tôi im lặng và linh mục tiếp tục hỏi và Chúa ơi, dù Theresa có nhìn thấy những gì đang diễn ra tôi cũng không quan tâm, dù Giáo hoàng có gõ cửa và dù cả trường đào tạo hồng y nhìn vào qua cửa sổ tôi cũng bất chấp, ôi Chúa ơi và Frieda nằm thượt ra trên người tôi và bảo tôi rằng tôi thật tuyệt vời và hỏi tôi rằng liệu tôi có nghĩ đến việc ở lại Poughkeepsie hay không.

Frieda nói với linh mục rằng sau khi ở phòng tắm ra tôi bị chóng mặt, rằng chuyện đó thường xảy ra khi người ta vừa trải qua một hành trình dài lại uống một thứ bia lạ như bia Rheingold, loại bia mà cô ta tin rằng ở Ailen không có. Bạn có thể thấy ngay là linh mục không tin cô ta còn tôi thì không biết làm thế nào để mặt tôi khỏi nóng bừng. Ông ấy đã ghi lại tên mẹ tôi và địa chỉ nhà tôi và bây giờ tôi sợ là ông ấy sẽ viết thư nói cho mẹ tôi biết rằng đứa con trai ngoan ngoãn của bà ngay đêm đầu tiên đến Mỹ đã lên giường với một người đàn bà có chồng đang đi săn nai để giải trí sau khi đã đóng góp ít nhiều cho nước Mỹ và thật tồi tệ khi đối xử như thế với những người đàn ông đã chiến đấu cho đất nước của mình.

Thuyền phó và người phụ trách điện đài trở về sau chuyến đi thăm nhà và thăm vườn của họ và họ không nhìn linh mục. Đám phụ nữ cho rằng chúng tôi chắc đã đói bụng và họ kéo nhau vào bếp. Chúng tôi ngồi trong phòng khách lặng im và chúng tôi nghe thấy đám phụ nữ ở trong bếp thì thầm và cười với nhau trong bếp. Vị linh mục lại nói nhỏ với tôi: “Đúng là những người đàn bà hư hỏng, hư hỏng, tội lỗi” và tôi không biết phải nói gì với ông ấy.

Đám phụ nữ mang bánh sandwich ra và họ rót bia vào các ly và khi chúng tôi ăn xong họ mở đĩa nhạc của Frank Sinatra rồi mời chúng tôi nhảy với họ. Không ai trong chúng tôi dám nhận lời bởi vì bạn sẽ không bao giờ dám đứng dậy nhảy với những phụ nữ hư hỏng trước sự có mặt của một linh mục, và thế là đám phụ nữ nhảy với nhau và họ cười như thể tất cả họ đều có những điều bí mật thú vị. Tim Boyle uống whisky và lăn ra ngủ trong góc phòng cho tới khi Frieda đánh thức ông ta dậy và bảo ông ấy đưa chúng tôi trở lại tàu. Khi chúng tôi rời ngôi nhà đó Frieda nghiêng người về phía tôi như thể cô ta muốn hôn tôi nhưng vị linh mục đã lên tiếng chào tạm biệt bằng một giọng khá lạnh và không ai trong chúng tôi bắt tay những người phụ nữ đó. Khi chúng tôi bước xuống đường để ra sông tôi còn nghe rõ tiếng cười lanh lảnh của đám phụ nữ ở phía sau.

Chúng tôi trèo lên thang và Tim đứng ở dưới thuyền gọi với theo: “Lên cẩn thận nhé. Ê, các chàng trai, một tối vui vẻ đấy chứ? Chúc ngủ ngon, các chàng trai, chúc Cha ngủ ngon”.

Chúng tôi nhìn chiếc thuyền nhỏ của ông ta biến mất trong bóng đêm phía bờ sông Poughkeepsie. Vị linh mục chúc mọi người ngủ ngon rồi đi xuống dưới và thuyền phó cũng đi theo ông ấy.

Tôi đứng trên boong tàu với người phụ trách điện đài nhìn những ngọn đèn nhấp nháy phía xa xa. Người phụ trách điện đài nói:

- Chúa ơi, đúng là một tối vui vẻ, Frank ạ. Chẳng phải đây là một đất nước rất tuyệt sao?

HẾT

Chú thích:

1 - Trong tiếng Anh từ miệng (mouths) và từ chuột (mouse) có âm gần giống nhau.

[2] Thánh Vịnh 43: “Con sẽ tiến lên bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa, Đấng làm cho tuổi trẻ con hân hoan.”

[3] Omadhaun: từ lóng tiếng Ireland dùng trong ngữ cảnh thân mật có nghĩa là kẻ ngu ngốc, kẻ khờ khạo.