← Quay lại trang sách

❖ 3 ❖ Les Tamaris, El Marsa, Tunisia

Tôi tên Sébastien Grimaud, một nhà khảo cổ hiện đang tạm thời rời xa công việc khai quật. Vào chớm đông, người con trai của một sĩ quan người Thổ từng giúp đỡ khi tôi khai quật di chỉ Éphèse, ghé thăm tôi. Một cách vô tình, buộc tôi phải mở lại cuốn sổ tay ghi chép của mình.

Tôi gặp ông sĩ quan đó vào những năm đầu của thập niên 1980, ở sân bay Istanbul, ông đoàn tụ với gia đình bên bờ sông Tuz vào kì nghỉ. Không lưu hoàn toàn chìm trong hỗn loạn, vì lý do gì tôi quên rồi. Nhiều chuyến bay, trong đó có của chúng tôi, đã trễ hơn năm tiếng, chúng tôi đã bắt chuyện, dù tôi không ưa cái chế độ mà ông ấy phục vụ.

Tôi quan sát những người xung quanh, tôi hỏi và lắng nghe câu trả lời trước khi đánh giá. Sự thận trọng ấy chỉ là hậu quả lâu dài từ tính rụt rè của tôi. Khi còn trẻ, tôi là người khép kín, quá thụ động nên các thành viên trong gia đình không mấy quan tâm. Dần dà mọi người nghĩ rằng tôi không thân thiện. Sau đó họ cho rằng tôi là kẻ tỏ vẻ sang cả. Thực ra, tôi ngủ vùi trong lớp vỏ ấu thơ, chỉ thức giấc trước những mặt đất cày xới, nơi tôi kiếm tìm mảnh vỡ đá lửa hay những mũi tên sau cơn mưa, hay khi bò trườn trong hành lang dẫn vào những ngôi mộ ở thung lũng Petit Morin, những hang động mà du khách bỏ lỡ dưới chân một ngọn đồi.

Những câu hỏi mà tôi chẳng dám đặt cho những người thân đương thời, bố mẹ hay đám bạn, tôi đem đi hỏi những người mà mình chẳng quen biết, những người mà từ vài nghìn năm trước đã đào quặng đá lửa bằng gạc hươu xuyên qua bề dày của những lớp đá phấn.

Những đối thoại thường xuyên cùng người chết giúp tôi thấu hiểu sự phức tạp mệt mỏi của người sống. May mắn thay, tôi chỉ phát hiện câu nói của Shakespeare rất lâu về sau, khiến tôi bối rối mỗi khi nhìn lại: “Nguyền rủa những người khiến xương ta xáo trộn.” Nếu tôi mà biết câu nói này sớm hơn, tôi e rằng sự tồn tại của tôi đã hoàn toàn thay đổi.

❖ ❖ ❖

Tại thời điểm tôi gặp Demir, sân bay Istanbul có quy mô khiêm tốn dù từng hoạt động quốc tế có tầm cỡ. Nhà ga nơi chúng tôi được mời vào đợi hết sức hỗn loạn. Không có đủ chỗ ngồi cho tất cả mọi người, nhiều du khách phải ngồi dưới đất hay trên vali của mình. Người Mỹ, người Đức, và có cả doanh nhân người Thổ Nhĩ Kỳ. Những người Hồi giáo Bulgaria, có vẻ bị xua đuổi khỏi nơi sinh sống, họ bốc mùi dê, đang nằm vùi trên đống hành lý linh tinh được buộc dây lỏng lẻo, tạo thành nhóm đen nghịt ở giữa sảnh.

Những chàng trai mặc ghi-lê ottoman với mũ fez mời chúng tôi dùng trà và sữa chua tươi trên một khay to. Người ngồi kế bên liếc ngang quan sát tôi ăn xong sữa chua và lắc đầu ngao ngán. Ông lấy ra từ túi mình một chai whisky và đưa tôi một ly. Tôi đón lấy, và ông tự giới thiệu: “Đại tá Demir...” Tôi không thể ngờ rằng người đàn ông thân thiện, nói tiếng Pháp, áo quần giản dị này lại thuộc về phe đảo chính đang nắm quyền ở Ankara.

Về sau, ông ấy kể tôi nghe về gia đình mình và thường xuyên cùng con đến thăm tôi, trong đó có Levent (tiếng cười của cậu vẫn vang vọng trong ký ức tôi), tại những khu khai quật mà ông ấy góp phần giúp đỡ bằng cách lay chuyển sự chậm chạp và thái độ hành chính ngập ngừng của các quan chức ngành Cổ vật Thổ Nhĩ Kỳ. Ông giúp nhiều đến nỗi tôi đã tặng ông một bức tượng bán thân thời La Mã hậu cổ đại, một bản sao đương thời của bức tượng nổi tiếng, với chấp thuận ngầm của sếp tôi. Chúng tôi giữ liên lạc khá lâu cho đến khi không còn gặp nhau nữa.

Thật bất ngờ khi thấy con trai ông hiện diện trước cửa nhà tôi vài tháng trước. Tôi thốt lên ngạc nhiên khi Rim, sống chung với tôi, đến báo rằng có ông Demir nào đó muốn nói chuyện với tôi. Demir! Khi tôi gặp Levent, trong thoáng chốc, tôi thực sự cứ ngỡ đấy là ông bố. Cùng màu da, mái tóc ngắn cũng được cắt cùng một kiểu, đôi giày da mộc Timberland (tôi ngay lập tức hình dung cậu đã giữ những mối liên lạc của bố mình ở Washington), giọng nói mang cùng một âm sắc.

“Nhưng làm sao cậu tìm được tôi? Cậu từ tận Istanbul đến đây để gặp tôi à?”

Cậu ấy không đến từ Thổ Nhĩ Kỳ mà từ Libya. Các nhà khảo cổ Libya đã nói về tôi và chỉ cho cậu ấy tôi sống ở đây, gần Tunis.

“Cậu đi từ Benghazi đến, bằng xe hơi ư?”

“Tôi đi từ tối qua, đường đi cũng thuận lợi nếu không bị chặn ở trạm biên giới một cách ngu ngốc...”

Tôi đoán được rằng cậu ấy cần có thời gian mới nói về mục đích chuyến thăm này.

Tôi dẫn Levent đi ăn trưa ở hiên trước của một nhà hàng lộng gió, gần bến cảng. Chúng tôi cùng chia nhau một bình rượu vang trắng và những miếng phi lê cá mòi sống. Tôi tập trung vào phần đồ ăn của mình, đợi cậu ấy nói. Thịt cá mòi óng ánh màu xà cừ, một màu trắng vô cùng tinh khiết với sắc xanh phản chiếu. Lúc tôi gọi cà phê và hóa đơn, tôi ngỡ cậu ấy sẽ mở lời, nhưng chỉ đến khi tối muộn cậu mới đề cập đến chủ đề chính về tình trạng ở Libya, nơi cậu thường lưu trú.

“Chẳng còn nhà nước hay thể chế nào nữa. Không còn nhà nước, không còn thể chế, nội chiến thì hoành hành...

Những kẻ Hồi giáo cực đoan đang dần kiểm soát đất nước.

Chính phủ nước tôi cũng đang cố gắng góp phần ổn định khu vực... Và như anh cũng biết, vài nhóm bắt đầu phá hoại di sản quốc gia. Các nhà thờ Hồi giáo ở thành phố cổ Tripoli, cũng như di tích của hai thành phố La Mã phi thường, đã luôn đứng vững sau bao sóng gió...”

“Vậy cậu trông chờ điều gì ở tôi?”

“Một số quan chức Libya nghĩ rằng tốt hơn hết là đem một số thứ quý báu ra khỏi đất nước hơn là phá hủy chúng...”

Tôi hiểu rồi. Levent chẳng khác gì bố cậu.

Ở Iraq và Syria, buôn bán cổ vật và dầu mỏ là một trong những nguồn thu nhập chính của những kẻ Hồi giáo cực đoan. Những gì chúng không phá hủy, chúng sẽ bán. Levent đến để yêu cầu tôi hỗ trợ và cho ý kiến chuyên môn để giúp cậu thiết lập mạng lưới tương tự ở Libya. Tôi xin thêm một chút thời gian để suy nghĩ và để cậu sắp xếp cho tôi một số liên lạc thăm dò. Rim chuẩn bị cho cậu căn phòng dành cho khách, cậu ấy rời đi sáng hôm sau.

Levent đã gõ cửa khi cuộc đời tôi sắp sang trang mới. Những tấm séc tôi nhận từ biên tập suốt ba năm đã đẩy tôi rời xa Trung tâm nghiên cứu Khoa học quốc gia và khiến tôi từ chối tham gia hai hay ba điểm khai quật khẩn cấp, như những khu tôi quen thực hiện vào mỗi mùa đông trong suốt hai mươi năm, thường cách xa nơi cư trú quen thuộc của tôi. Thành công ngoài mong đợi của cuốn sách về Alexandre Đại đế đã đảo lộn dòng chảy cuộc đời tôi.

Quyển Alexandre ấy, do một nhà xuất bản khoa học phố Les Écoles đặt hàng, được tôi soạn thảo từ những ghi chú cũ kĩ. Tác phẩm ngắn, bao gồm một nhật ký về khai quật, điểm thêm những suy nghĩ cá nhân, và được làm phong phú hơn bằng những trích dẫn từ các nhà sử học Hy Lạp, Ba Tư hay Ả Rập. Loại sách mà thường không bán vượt quá ba trăm bản. Nhưng một đài phát thanh yêu cầu tôi chuyển thể nó thành “những mẩu chuyện kể siêu ngắn” dài bảy phút, phát sóng hằng ngày trong suốt mùa hè. Thế là phất lên ngay lập tức, hiệu sách cháy hàng, phiên bản bỏ túi đầy hứa hẹn, các bản dịch.

Tôi không hề ngần ngại. Mẹ tôi vừa mất, tôi khóa cửa căn nhà của bà lại rồi rao bán. Đất nước tôi khiến tôi mệt mỏi. Những người sống đương thời cũng vậy. Họ thành công theo cách vừa chán nản vừa kiêu ngạo, chạy theo tiếng gọi của những chính trị gia tầm thường. Tôi cảm tưởng như thế giới mà tôi trưởng thành, với sự bảo thủ và những thứ người ta gọi là chuẩn mực, tất cả mọi thứ tôi thấy khó mà chịu đựng được trước đây, đang trên đà biến mất ngay trước mắt mình. Tôi dần thấy tiếc nuối.

“Sự nghiệp” khoa học của tôi đã đi đến hồi kết, tôi quay lưng với những kẻ đào mộ, đón chờ lưỡi dao hưu trí và tôi chuyển đến đây định cư.

Chấp nhận sống giữa những đống đổ nát, vậy sao không chọn chính cái đống của mình?

Tôi mua Les Tamaris, một căn nhà ở El Marsa, gần Tunis. Cách bờ biển không xa, trong một khu vực không mấy an toàn, trên đường kẻ biên giới, bao quanh Địa Trung Hải, chia cắt giữa giàu có và nghèo khổ. Quá khứ và hiện tại. “Nơi đâu tôi mới cảm thấy như nhà mình?” Nietzsche hỏi. Trong căn nhà Hồi giáo tồi tàn to lớn này, một chút cằn cỗi, ẩm ướt vào mùa đông, vậy mà lần đầu tiên, tôi có cảm giác như đang ở nhà.

Tôi sáu mươi hai tuổi, dáng vẻ mảnh khảnh, chiều cao trung bình, mái tóc đen, vẫn còn sức lực, tôi ăn, tôi uống, tôi hứng tình, râu chỉ đốm vài sợi bạc, ở tuổi này, chính trên đường biên giới của đất Tunisia, tôi sẽ sống phần đời mới. Phần mới hay phần cuối? Đây là câu mà Levent hỏi tôi, cậu ta cũng thừa hưởng tính châm biếm của ông bố.

Ngoại thất căn nhà trông có vẻ tồi tàn. Ở đây cách xa các biệt thự quý tộc của khu vực, hoa giấy vây quanh, và được những người đàn ông mặc đồ đen canh giữ, kết nối ngày đêm với chủ của họ qua tai nghe. Chẳng có gì khoa trương ngoài một ít thanh lịch còn đọng lại trên mặt tiền suy tàn, in hàng chữ vẽ bằng hắc ín mãnh liệt: BEN ALI CÚT ĐI! Vùng đất bỏ hoang dọc xuống hướng bến cảng, vương quốc của những con mèo đói khát, phủ đầy rác rưởi và chai nhựa lềnh bềnh. Tôi giữ vẻ mờ ảo. Thợ bản địa Tunisia phụ trách đổi mới phía trong. Tôi không tiếc tiền, tự bày trí đơn giản và tiện nghi.

Từ căn phòng ngủ ở tầng một, tôi nghe thấy tiếng hàng xóm mình đi rồi lại về. Ông sống nhờ đánh bắt cá và khu vườn của mình. Động cơ từ chiếc thuyền của ông trở thành đồng hồ của tôi. Rim chuyển đến sống sau khi tôi dọn đến vài tuần. Hệt như những người trẻ tuổi sống buông thả, con bé dậy muộn. Tôi có cả buổi sáng dành cho việc viết lách.