← Quay lại trang sách

❖ 6 ❖ Trên đường tới Tripoli, Libya

Trời nóng, những tên lính biên phòng lật tới lật lui cuốn hộ chiếu rồi cho tôi qua. Levent đã điều một chiếc xe tới biên giới Libya, một chiếc Hummer kaki, chiến lợi phẩm của cuộc chiến vẫn còn giữ biển số ngoại giao Hoa Kỳ, và một đoàn hộ tống súng ống tận răng. Những nỗ lực này cho thấy tôi có một vai trò quan trọng trong con mắt của những người tiếp đón. Dù không muốn bỏ Rim một mình quá lâu nhưng tôi cũng vui khi rời El Marsa. Chuyển đi này kích thích sự tò mò ngay khi tôi đoán được rằng tình hình hỗn loạn ở Libya không có gì vui và nhất là nước Libya đã khác nhiều so với cách đây ba mươi năm khi tôi tới tham gia chiến dịch khai quật cùng với các đồng nghiệp người Ý ở Leptis Magna.

Những túp lều nơi khai quật dựng ở kế bên đền Hereules, giữa Đấu trường cổ và biển. Không thể mong đợi điều tốt hơn. Tôi đến nơi khai quật sớm nhất có thể, trước cả những con ruồi, cùng lúc với bọn cảnh sát ngày đêm theo dõi chúng tôi. Tôi đã bước đầu kết thân với người thanh niên trẻ nhất trong số bọn họ, tên Moussa, cũng không khá gì hơn đồng nghiệp của nó, một tên khốn. Bằng mấy đồng đô-la, nó tuồn cho chúng tôi những thứ khan hiếm được mua ở Tripoli, nó quay về đó vào buổi tối mỗi khi tìm thấy, nào là xà phòng, dao cạo, và dĩ nhiên sẽ có rượu vang hoặc whisky; nó đã mua lại với giá đắt đỏ từ một tên thư ký ở Đại sứ quán Ai Cập.

Chúng tôi chỉ rời Leptis khi có tiệc tùng ở Tripoli, thường vào tối thứ Sáu, và luôn được bọn thiên thần hộ mệnh hộ tống. Đại sứ Pháp, một chuyên gia ngôn ngữ và văn hóa Ả Rập, con trai của một người theo chủ nghĩa vô chính phủ, thích tụ họp vài người bạn ăn uống trong vườn, trong đó có một nữ nhà báo Pháp, Jeannette (bồ nhí của Gaddafi, tóc vàng hoe trong bộ đầm xanh lá ngắn, giọng nói hơi khàn). Hôm sau, chúng tôi quay về nơi đóng căn cứ của mình.

Căn cứ tạm bợ của chúng tôi nằm ở cửa sông Lebda, sát biển, nhưng cũng không làm dịu đi phần nào sức nóng. Chúng tôi tán gẫu hàng giờ và nhâm nhi rượu rosé ướp lạnh. Sự yên bình cho những ai ảo tưởng được ở lại mãi mã... Tôi đã có một kỷ niệm rất đẹp về những buổi tối cùng hàn huyên, nỗi ám ảnh, niềm tin và hoài nghi của chúng tôi. Chúng tôi nói về thế giới, với những hỗn độn, những biến đổi, xóa bỏ mọi ranh giới thời gian. Dưới bầu trời đầy sao, chúng tôi bàn luận từ Septimius Severius đến Gaddafi.

Tôi nhớ một đêm nọ, Enzo, một đồng nghiệp người Ý gốc Milan, đã nhắc lại câu nói nổi tiếng của Napoléon ở Fontanes, giọng điệu nghiêm trang nhưng châm biếm, kiểu Mastroianni, giọng đầy quyến rũ của anh vẫn còn văng vẳng bên tai: “Chỉ có hai sức mạnh trên thế giới: quyền lực và trí tuệ; theo thời gian, quyền lực luôn phải khuất phục trước trí tuệ.”

Leptis Magna, nằm giữa các đồn điền ô liu với những con đường xếp hình sao hướng về Alexandria, Timbuktu và Tingis (sau này là Tanger), đã từng là cái bóng của nền văn minh ngạo nghễ thời La Mã, nó bao phủ khắp sa mạc châu Phi. Ở Leptis Magna, các Hoàng đế thay nhau cai trị trong thời kỳ hỗn loạn của lịch sử, quyền lực và trí tuệ đều bại. Tình yêu, khát khao và thần thánh đều rời bỏ thành phố, nơi trước đây cuộc sống vô cùng náo nhiệt. Thành phố nay trở nên tĩnh lặng.

Những buổi trò chuyện của chúng tôi không ngừng xoay quanh điều bí hiểm này. Tại sao không có người? Những người cuối cùng có mặt tại thành phố này là quân đoàn Byzantine, khoảng bốn mươi binh sĩ, vào thời kỳ người Ả Rập đi xâm chiếm. Chúng tôi tự hỏi những người canh giữ biên cương đã đi đâu, chính phủ đã bỏ quên họ? Họ bị hành hình trên bãi biển? Họ đã âm thầm cải đạo? Sau họ, hầu như không còn một ai qua lại trên con đường của Leptis, cho tới trước Đại thế chiến năm 1914, khi những nhà khảo cổ người Ý đổ bộ.

Hơi thở của biển cũng không làm bớt đi sự yên lặng đè nặng lên thành phố. Thỉnh thoảng, một sô dân du mục đi ngang qua, dừng chân, nhưng không dám bước vào khu vực của người La Mã. Họ tự cho mình là lính gác (thậm chí là chủ nhân) của thành phố chết, họ chăm sóc hoa giấy, nhũ hương và đậu kim, tạo ra những vệt màu trải dài lên những hòn đá giãn nở.

Những vết tàn tích tỏa ra nguồn năng lượng phi thường. Ký ức về một thời huy hoàng vẫn sống mãi trong từng người chúng tôi. Thành phố ám ảnh chúng tôi.

Chúng tôi nằm trên giường trại, chẳng thể nào ngủ được, vào một đêm nọ, sau khi châm điếu xì gà xoắn và nặng mùi ưa thích, Enzo kể rằng, vào thế kỷ 17, những du khách Pháp, được lãnh sự của chúng tôi bảo hộ ở Tripoli, đã mua đá cẩm thạch và cột đá từ người Bédouin du cư, chúng được vận chuyển với sự cho phép của Quốc vương Constantinople, đến khu biệt thự săn bắn ở Versailles và ở hai nhà thờ Paris, Saint-Sulpice và Saint-Germain-de-Prés. Chúng tôi đã hứa sẽ gặp lại nhau ở Paris để uống một ly sâm panh trước những viên đá hồng và xanh ấy. “Sâm panh mát lạnh đây!” Enzo nói khi mồ hôi nhỏ giọt xuống giường, như tất cả chúng tôi. Lời hứa đã không giữ được, nhưng những ký ức sống động ngày đó khiến tôi chấp nhận ngay lời đề nghị của Levent quay trở lại Leptis Magna.

Khách sạn Corinthia, Tripoli, Libya

Sau khi vượt qua nhiều trạm kiểm soát và đi dọc theo khu đất hoang tàn với tàn tích cung điện của gã yêu tinh Gaddafi, Bal al-Azizia, đoàn xe chúng tôi tiến vào khu vực tiếp cận Corinthia. Một đám đông chiến binh chen lấn nhau phía sân trước. Tôi đưa mắt tìm kiếm đầu mối liên lạc của Levent đang phải đợi tôi. Tôi phát hiện ra một người đàn ông tầm bốn mươi, ăn mặc theo phong cách châu Âu, và khi tôi bước đến chỗ anh ta thì một người phụ nữ mang khăn voan che mặt bước ra khỏi đám dân quân và tiến đến.

“Ông Sébastien Grimaud? Chuyến đi của ông tốt chứ? Tôi sẽ chỉ cho ông phòng của mình, chỉ huy Moussa sẽ sớm tiếp ông.”

❖ ❖ ❖

Về mặt lý thuyết, tôi có quyền rời khỏi phòng mình.

Về mặt lý thuyết, tôi có thể đến một trong những quầy bar làm một ly và thỏa thích sử dụng máy chạy bộ trong phòng thể hình hoặc mát xa tại spa. Nhưng quán bar không phục vụ rượu, máy chạy bộ lại không hoạt động, nhân viên mát xa cũng biến mất, và nhất là Levent, đã gọi điện thoại cho tôi, dặn rằng khi đi dạo trong khách sạn, tôi có thể gặp phải rủi ro không đáng: “Anh chỉ nên rời phòng khi vệ sĩ của tôi đến đón. Khách lưu trú ở khách sạn là những doanh nhân được bảo vệ rất kỹ lưỡng, cùng vài nhà báo phiêu lưu mà thôi. Các nhà ngoại giao cuối cùng đã rời khỏi Corinthia.”

Tôi mang theo vài quyển sách. Tôi dành hàng giờ để đọc, tôi nghĩ đến Rim, tôi lo lắng về con bé, tôi tưởng tượng nó tụ tập với tụi con trai trường trung học, tôi tự nhủ chắc không đâu, tự trấn an, tôi yêu cầu dịch vụ phòng một pizza, tôi tắm dưới vòi sen lạnh và khi màn đêm buông xuống, tôi xem tivi.

Tôi không phủ nhận ý muốn gọi cho Rim vẫn luẩn quẩn trong đầu. Tôi mười lần bấm số điện thoại, nhưng tôi gác máy mười lần trước khi cuộc gọi của tôi đổ chuông. Tôi vẫn gửi một tin SMS cho con bé. Rời rạc và ngắn gọn. Mọi thứ đều ổn. Đừng quên học toán. Khi bấm gửi, tôi biết đó là một sai lầm. Đừng hy vọng có câu trả lời. Giá mà có người đồng ý để mắt đến việc đi hay về của con bé lúc tôi vắng mặt sẽ khiến tôi thấy nhẹ nhõm. Nhưng tôi không thể yên tâm giao nhiệm vụ này cho hàng xóm của mình mà không dấy lên sự ngờ vực. Dù thế nào đi nữa, nó cũng cần được tự do, tôi phải quen với việc này.

Sidi Bou Saïd, Tunisia

Tôi đã gặp Rim vài tháng trước, lúc tôi viếng thăm ngôi mộ Sidi Bou Said nằm phía sau quán cà phê Les Nattes, trước đây là một nơi ăn chơi thời thượng của khách du lịch. Tôi quan tâm đến ngôi mộ của thầy pháp này với nhiều lý do. Những ngôi mộ của các vị thánh luôn là những điểm giao nhau giữa trời và đất. Tôi đã nghe nói đến truyền thuyết cho rằng thánh Louis trước khi chết đã cải đạo sang Hồi giáo. Vì thế vị vua của người nghèo này có lẽ đã được phong thánh hai lần. Ibn Khaldoun đã từng nói đến giả thuyết kì lạ này. Thánh Louis, tên thật là Sanluwis, ibn Luwis, hay Ridâfrans, phiên âm của Roi des Francs (Vua dòng họ Francs), đã tiếp tục đeo bám ký ức của những người Ả Rập sống ở bờ biển Ai Cập, và cho tới tận Carthage, nơi ông qua đời.

Truyền thuyết phương Đông về thánh Louis, bị các sử gia phương Tây lãng quên, đã không ngừng lan truyền qua truyện cổ tích và điển tích Kinh Thánh. Thật đáng ngạc nhiên, câu chuyện này vẫn còn như in trong tâm trí của người phụ nữ tứ tuần, gương mặt che kín, vẻ ngoài luộm thuộm, đang canh giữ ngôi mộ của Sidi Bou Said. Tôi gõ cửa nhà bà. Đầu tiên bà yêu cầu tôi đi chỗ khác chơi. “Đây là thánh đường! Không thăm viếng!” Trước thái độ nài nỉ của tôi, bà hạ cố ra đứng trước thềm cửa. “Tôi là con cháu của Sidi Bou Said, chính ông tổ đã cải đạo cho Sanluwis, ông đã giúp Sanluwis nhận ra được những tội lỗi của mình...” Trong lúc bà ấy nói, tôi để ý thấy một cháu gái trẻ đang ngồi đọc dưới một mái che gần nhà. “Ông đang nhìn Rim à? Nó là đứa em họ, ba mẹ nó bị giết trong cuộc cách mạng...” Tôi đưa bà ấy 10 euro. Bà mở cửa thánh địa và quay gót bước lê vào trong bếp.

Buổi tối trời mát mẻ, hương hoa thoảng trong không khí, tôi đi bộ về, đúng một tiếng đồng hồ. Màn đêm buông xuống và nhiều lần, tôi có cảm giác bị theo dõi nhưng không bao giờ nghĩ rằng một đứa con gái trẻ đang bước đi nhẹ nhàng như mèo cùng hướng với tôi.

Tôi đã tính đọc lại một cuốn tiểu sử về thánh Louis, thì ai đó gõ cửa. Tôi đã về nhà hơn một tiếng đồng hồ. “Cháu đây, Rim...” con bé chỉ nói thế và bước vào căn phòng trước khi tôi mời. Nó mang một cái túi với những cuốn tập, những cuốn sách học và hai cuốn truyện bỏ túi. “Cháu có thể ngủ ở đây không?” Tôi ngạc nhiên khi thấy gương mặt nó sáng bừng sự kiên quyết. Có gì đó pha trộn giữa sự e thẹn và cả quyết tâm. Nhưng tôi thật sự bị choáng ngợp khi thấy nó giống vợ tôi, Valentine: cũng đôi mắt màu xanh, cũng mái tóc đen, cắt ngắn, làn da rám nắng, gò má khá cao, nét mặt và cử chỉ của nó cũng giống vợ tôi, nó thật sự làm tôi bối rối. Tôi đã gặp vợ tôi ở trường trung học và chúng tôi đã kết hôn ngày cô ấy mười bảy tuổi. Hai năm sau đó, Valentine tự tử, ngày cô mười chín tuổi, lỗi của tôi. Không ai thế chỗ của cô ấy.

Rim đang đợi tôi trả lời, vừa nhún nhảy vừa nhìn những cuốn sách trên tủ. “Sao lại không chứ? Chỗ của chú cũng không tồi...” Sau khi nghe chính mình phát ra những từ như vậy tôi mới ý thức được ý nghĩa của chúng. Tôi đưa con bé bánh mì kẹp thịt và lon Coca, tôi chỉ phòng của nó, nơi tắm rửa. Có lẽ sau này tôi sẽ tự trách mình là một kẻ vô trách nhiệm bệnh hoạn, nhưng hiện giờ, tôi cảm thấy hãnh diện. Khi nó quay trở xuống, nó để xuất pha trà bạc hà. Tôi nhìn nó lấy nước và đi tìm mấy cái tách, tôi tự nhủ mình cần phải chọn lựa từ ngữ khi nói chuyện với nó và suy nghĩ khi hành động. Nhất là không được hứa gì cả.