❖ 8 ❖ Valletta, Malta
Một tin nhắn của Đại sứ quán xác nhận chuyến thăm khu đền Mnajdra. “Một chiếc xe buýt nhỏ sẽ đến đón quý khách. Điểm hẹn tại sảnh khách sạn Excelsior. Chúng ta cần phải có mặt tại nơi đến ba mươi phút trước khi mặt trời mọc. Khu đền sẽ đặc biệt mở cửa cho chúng ta và một nhóm phụ nữ người Mỹ, họ đã bao trọn khu vực bên trong một ngôi đền.”
Rifat Déméter, Đại biện người Pháp, lo lắng dù mới sáng sớm, đếm đi đếm lại số lượng khách mời. Một nhà ngoại giao trạc tứ tuần. Làn da ngăm đen, bàn tay dài xương xẩu, mái tóc đen và ngắn, tóc thưa ở hai bên thái dương, ông ấy đeo một cặp kính cận hình chữ nhật và mặc một bộ âu phục bằng vải lanh trắng thanh lịch. Ông ấy thích vừa cười vừa giới thiệu về bản thân rằng mình “đã vào Bộ Ngoại giao bằng kì thi tuyển cán bộ khu vực Trung Đông khi Bộ đang muốn cho thấy đội ngũ nhân viên của Bộ có quá trình làm việc và kinh nghiệm đa dạng, thể hiện rõ, thậm chí đi trước sự tiến hóa của xã hội.”
“Thật lạ, ông ấy nói và nhìn về phía thang máy, đúng ra chúng ta phải là năm người tính luôn tài xế... hình như còn thiếu... ai đó...” Vừa lúc ấy, một phụ nữ trẻ trạc hai mươi đi qua lối vào và sải bước băng qua sảnh khách sạn, tiếng dép sandal phát lên từ nền gạch. Một dáng người thanh mảnh, quần jean, áo corset tay trần, một chiếc khăn choàng Ả Rập keffieh quấn quanh cổ.
“Emma! Tôi định tới nhờ tiếp tân đánh thức cô dậy. Tôi quên mất cô sống trong thành phố.”
“Xin chào,” cô đáp trống không, một tay đặt trước mắt như để không bị chói.
Làm quen ngắn gọn, trạng thái còn đang ngái ngủ. Đây là lúc nói chuyện mà không nhìn mặt nhau. Các cửa thang máy mở cùng lúc và tiếng người huyên náo khắp sảnh. Rifat giật mình khi thấy những người mới xuất hiện, những tay nhà báo người Mỹ, ông chạy ra bắt tay chào họ và nói vọng lại: “một nhóm phóng viên CNN... họ đi thực hiện một phóng sự ở Tripoli.” Nhân viên khuân vác chạy về phía họ và mang các vali cùng thiết bị quay phim đi.
Rifat đưa những “khách mời” của mình lên một chiếc xe buýt mini màu đen. Tài xế mở lớn máy lạnh. “Lạnh thế,” Emma lầm bầm ở chỗ khuất ánh sáng. Hành trình đi qua những con đường nằm trên cao của Floriana, băng qua những thành phố đang ngủ, rồi cảnh đồng quê chìm trong bóng tối. Ánh đèn pha soi vào nhiều người đi bộ dọc bên đường. Những bóng dáng không có gương mặt, bộ dạng người mộng du.
Một đại diện của Bộ Du lịch, với râu quai nón và đầu đội nón lưỡi trai, chào đón những người tham quan ở Mnajdra và dẫn họ đến khu đền bằng con đường dốc trên cánh đồng hoang. Trăng chiếu sáng những tấm che được căng ra ở phía trên khu đền. Biển thở nhẹ. Không khí tràn ngập mùi hương của vùng Địa Trung Hải.
Emma, sinh viên Pháp đang thực tập ở Valletta, im lặng, cúi đầu và Jeannette, một nhà báo với đôi mắt xanh ngọc, miệng ngậm một thanh sô-cô-la đắng, họ đang bước đi cạnh Rifat Déméter, giọng vang, lịch sự một cách hơi gượng ép và mang một đôi giày Converse mới. Dẫn đầu là anh người Thổ, Levent Demit, bạn của Rifat, tay cầm gói thuốc lá.
Ánh sáng trắng từ những ngọn đèn dầu ở phía bên kia khu đền.
“Hẳn là từ nhóm mấy cô người Mỹ,” anh người Malta nói.
“Phải làm gì đó chứ,” Jeannette thì thầm, “những ngọn đèn đó sẽ làm hỏng việc quan sát sao của chúng ta!”
Họ ngồi xuống những tấm chăn và tạo thành một vòng tròn.
Một vệt ánh sáng trắng quét trên mặt biển gợn sóng, dọc ngang những dải bọt màu trắng bạc. Tất cả họ đều đang có cảm giác bồng bềnh và kết nối với một thứ gì đó siêu hình.
“Tôi chưa bao giờ nhìn thấy trăng sáng đến như vậy,”
Emma thì thào, tựa như cô đang sợ chính giọng nói của mình.
“Và có lẽ chưa bao giờ trăng to đến vậy. Giống như nó đang tiến lại gần chúng ta.” Anh người Thổ nói chen vào.
Anh râu quai nón người Malta kể ngắn gọn lịch sử khu đền: “Những nhà hàng hải đến từ vùng biển Địa Trung Hải xa xôi đã xây dựng khu đền này vào đầu thế kỉ thứ 6 trước Công nguyên, họ có khả năng nâng và dịch chuyển những tảng đá khổng lồ. Họ có những am hiểu về vận hành vũ trụ luôn làm các nhà bác học kinh ngạc. Hôm nay là ngày Hạ chí,” viên chức ấy tiếp tục nói, “trong ít phút nữa, mặt trời sẽ mọc. Lúc đó, quý khách sẽ chứng kiến một cảnh tượng độc nhất vô nhị. Tia nắng đầu tiên sẽ xuyên qua lỗ được khoét sâu trên tảng đá lớn và rọi vào ngay bàn thờ chính điện nơi các thầy đang làm lễ tế.”
“Tế người?” Emma hỏi.
“Các nhà khảo cổ chỉ tìm thấy những bộ xương động vật, nhưng điều đó cũng chẳng nói lên điều gì.”
Họ đứng dậy để chào đón bình minh. Phía bên kia đền, những cô gái người Mỹ thổi tắt các ngọn đèn. Phía chân trời hướng Đông, một điểm đang xuất hiện trên mặt nước lăn tăn màu xanh nhạt. Anh hướng dẫn người Malta nhìn đồng hồ rồi ra hiệu gọi mọi người vào đền và ngồi trong khu vực giáo đường thứ hai: “Chúng ta còn năm phút.”
Không ai mong đợi một vầng sáng như thế: một ánh sáng đỏ, chói lòa, xuất hiện từ lỗ nhỏ vách đá của ngôi đền và chiếu sáng rực bàn thờ. Những tiếng hò hét chào đón tia sáng. Những cô gái người Mỹ chắc chắn cũng đã nhìn thấy gì đó, vì họ cũng đồng thanh la lớn.
Họ tiến lại gần nhau, nghiêng người về phía điểm tụ sáng như muốn cùng nhau hòa vào sức nóng của tia sáng chỉ kéo dài thêm vài giây nữa. Sau đó họ ngắm nhìn mặt trời mọc, bàng hoàng trước cảnh tượng họ có đặc ân được trải nghiệm.
“Thế cũng không phải điều gì to tát lắm, chỉ một buổi sáng, như bao buổi sáng khác,” Emma nói.
“Những ngón tay hồng của bình minh...” Jeannette đáp trả.
Ánh sáng tràn ngập, trải dài trên mặt biển, trên cánh đồng hoang, xua tan những bí mật của bóng tối, đẩy nhanh chúng vào các thung lũng, bao quanh các ngôi đền, lôi chúng ra khỏi bóng tối, và quất thẳng vào mặt những người tham dự. Jeannet sẽ mãi nhớ cú sốc mà cô ấy đã cảm nhận vào thời điểm đó. “Tôi có cảm giác như ánh sáng mặt trời vuốt ve vào trong tận sâu thẳm con người tôi. Như thể những tia nắng đầu tiên xuyên qua từng lỗ chân lông, và chúng kích thích nhẹ nhàng những sợi dây thần kinh,” cô ấy nói như thế với Rifat.
Bên ngoài, chim chiền chiện cất tiếng hót.
Tiếng hót của nó hòa với tiếng cầu nguyện lạ lùng, ồm ồm, nghe không rõ, vọng tới tai của họ yếu dần, như từ rất xa, xuyên qua một lỗ khác trên tảng đá, người ta gọi đó là lỗ sấm truyền. Họ giật mình. Anh viên chức người Malta nhịn cười:
“Đáng lẽ tôi nên cảnh báo quý vị. Đó là một vị giáo sư đang thuyết giảng cho các học trò nữ của mình.”
“Một vị giáo sư?” Ông Đại biện ngạc nhiên hỏi.
“Giáo sư nhưng cũng xem như giáo chủ. Ông ấy phụ trách một nhóm người phụ nữ.”
“Những cô gái người Mỹ?” Anh người Thổ hỏi.
“Hơn nữa họ mời chúng ta qua dùng early morning breakfast với họ.”
Sáu phụ nữ ở những độ tuổi khác nhau đang ngồi xếp bằng, ăn mặc rất đơn sơ, đưa bộ ngực trần hứng lấy những tia nắng đầu tiên. Vị giáo sư mời họ đứng lên và mặc quần áo vào. Đó là một người gốc California, khoảng bốn mươi tuổi, râu quai nón tỉa ngắn, mặc quần jean và áo sơ mi Ấn Độ. Ông ấy cho biết đang phụ trách một chương trình nhập môn thuộc linh. Đây là một chuyến du hành, ông ấy dẫn những “học trò nữ” của mình đi khắp nơi trên thế giới. Khu đền Mnajdra là điểm dừng đầu tiên trong hành trình của họ.
“Mỗi tháng chúng tôi rời Palo Alto trong vài ngày.”
“Mục đích là tìm sự an nhiên?” Emma hỏi.
“Chính xác. Chúng tôi tập trung vào việc tìm kiếm những rung cảm tích cực.”
“Điều này làm tôi nhớ đến một bộ phim những năm 1960 về giai đoạn đầu của phong trào tự do yêu đương,” cô ấy tiếp tục nói và phì cười.
“Chúng tôi lấy cảm hứng từ một số triết lý của thời đại đó,” ông giáo sư người California đáp lại.
“Tình dục luôn gắn liền với thuộc linh,” một trong những người phụ nữ Mỹ nói.
Một cuộc tranh luận về đề tài nhạy cảm. Những nữ du khách Mỹ mang theo phích trà nóng và thêm rổ bánh sừng bò do thợ bánh của khách sạn làm đêm qua tại Saint Julian. Trời bắt đầu nóng lên, dù có gió bấc.
“Tôi tìm thấy nguồn cảm hứng ở hai người Pháp, Lacan và Lévi-Strauss,” ông giáo sư nói với viên Đại biện.
“Ông làm công việc này đã lâu chưa?”
“Tôi làm được ba năm rồi.”
“Công việc có vẻ khởi sắc?”
“Những khóa học của tôi đều đã đầy chỗ cho hai năm tới. Đa số các nữ khách hàng đều có nhu cầu thuộc linh. Nhưng họ cũng muốn tìm lại sự sung mãn trong đời sống tình dục của mình, dù họ thường không nói ra điều này. Họ chờ đợi được thăm viếng thân xác không báo trước. Những bất ngờ thú vị.”
“Ý ông là họ muốn để những viên đá nóng lên trên ‘chỗ ấy’ của họ,” Emma nói vẻ bực bội.
Viên Đại biện đề xuất chụp một tấm hình cả nhóm (để cho trang web của Đại sứ quán). Emma ngồi xổm, tóc rũ trước mắt, vẻ ảm đạm, hơi nhích lên trước so với nhóm. Jeannette cho biết cô cảm thấy không khỏe. Cô ấy nói:
“Do mệt thôi, sẽ không sao đâu. Tôi cần phải đi bộ và hít thở một chút. Tôi sẽ đi xuống dưới biển.”
Đã lâu cô không còn thích chụp kiểu tự phát. Bị tiếng chuông báo thức của khách sạn đánh thức quá sớm, cô không có thời gian để trang điểm. Và rồi sự hiện diện đó ở phía chân trời, vô hình, nhưng thật gần, nước Libya, làm cô bỗng nhớ lại, vẫn rõ như in, thời gian đã trôi qua thật lâu. Cô chủ động rời xa nhóm trong khi những người khác ngồi trên tấm thảm. Emma cũng đánh lẻ, và leo trèo như con dê cái, lên tới đỉnh của ngôi đền, nơi đó cô ngồi trong tư thế thiền định.
Một giờ trôi qua. Bỗng nhiên, Jeannette leo trở lên vừa chạy, thở hổn hển, vừa kêu cứu. Rifat Déméter là người đầu tiên đã nghe tiếng la hét. Ông ấy chạy nhanh về hướng đó.
“Chuyện gì thế?”
“Nhanh, gọi xe cứu thương!”
“Nhưng tại sao? Cho ai cơ?”
“Hai đứa trẻ châu Phi, chúng đang kiệt quệ. Chúng đang hấp hối.”
Nằm dài trên một băng ghế, cô lấy lại hơi thở một cách khó khăn. Rifat và Mike hỏi cô dồn dập. Cánh đồng hoang xào xạc. Côn trùng kêu râm ran, lá khô kêu tí tách. Jeannette nói những câu không liền mạch, ngồi dậy trong trạng thái hoảng loạn yêu cầu xe cứu thương.
Cuối cùng họ cũng hiểu ra rằng Jeannette đã gặp một bé gái người châu Phi, trong tình trạng kiệt quệ nó đã dẫn cô vào trong một hang động của vách đá, có cậu bé bị thương nặng đang trú ẩn. “Đang bị sốt cao, nó bị thương nặng ở đầu.” Viên chức người Malta gọi điện cho bệnh viện Mater Dei, sau đó giải thích với Rifat rằng có lẽ Jeannette đã tìm thấy hai đứa trẻ người Somalia đang tìm cách tới châu Âu bằng đường biển, như hàng nghìn người khác: “Cách đây vài hôm, một chiếc thuyền đơn sơ chở ba mươi tám người di cư bất hợp pháp đã bị đắm trước đảo Filfla. Mọi người đều nghĩ không một ai sống sót.”