❖ 14 ❖ Taurbeil-la Grande Tarte, vùng ngoại ô Paris, Pháp
Một đám người da đen đang bịt lối ra vào khu chung cư. Một tràng những từ tục tĩu tuôn vào tai của Sami khi bước vào dưới mái che. Anh lẳng lặng đi ngang qua những đứa mang mắt kính đen. Không đáp trả, không bao giờ đáp trả, chịu đựng chửi rủa và đôi khi bị khạc nhổ. Đó là quy tắc để sống sót.
Màn hình phẳng plasma to đùng chiếm một khoảng diện tích trong căn phòng chính của căn hộ nhà bố mẹ anh. Mẹ anh đang xem một chương trình truyền hình thực tế. Bà ấy ngày càng nghe kém và mở tiếng chiếc tivi to hết cỡ.
Sami nhếch lông mày và hét to: “Bố mẹ vừa trúng số sao?” Gương mặt của ông bố sẫm lại. Ông ấy ngập ngừng không trả lời, như thể ông muốn trong một khoảnh khắc rời xa những ý nghĩ xấu: “Ba không muốn, nhưng mấy đứa em con nài nỉ quá.”
Sami giận bản thân vì đặt một câu hỏi mà anh biết sẵn câu trả lời và đưa bố vào tình huống khó xử. Anh không đủ can đảm để nổi giận. Nhiều lần trong tháng, các băng nhóm tuồn hàng hóa từ những xe tải bị cướp hoặc từ những kho hàng bị hôi của. Trong tình trạng phê thuốc nặng, chúng đậu chiếc xe tải con trước lối vào một khu chung cư. Khách hàng đứng đợi tay cầm xấp tiền. Bố anh dù không ủng hộ kiểu buôn bán bất chính này, nhưng khi cơ hội đền, ông ấy cũng mua. Như bao người khác.
Giận để làm gì? Giờ đây bố anh là một ông già. Yếu ớt vô cùng. Sức lực ngày một giảm sút, má hóp, râu bạc trắng, mắt híp lại, và nụ cười nhợt nhạt phô ra hàm răng giả bằng kim loại lấp lánh. Sami đưa cho ông ấy một phong bì giấy kraft dán kín.
“Nhà con hết chỗ chứa rồi, đây là những giấy tờ ngân hàng tuyệt mật, tốt hơn là con để chúng ở đây.”
“Bố sẽ cất chúng với những giấy tờ khác, trong cái tủ phòng tắm...” Ông ho một tràng và không thể kết thúc câu nói của mình.
Sami đưa cho ông năm tờ 100 euro, ông mỉm cười không có can đảm từ chối. Quá rõ: nụ cười ấy là cách để ông không khóc. Sami xin nghỉ buổi chiều để đến thăm người bố đang kiệt quệ. Một chứng bệnh kinh niên đang tàn phá phổi của ông từ nhiều năm nay. Bác sĩ của Quỹ bảo hiểm cấm ông không được hút thuốc. Niềm vui trong cuộc sống bỗng bay mất, ý muốn quay về quê hương cũng thế.
Ông ôm mộng được sống những ngày cuối đời của mình dưới ánh nắng mặt trời của Sétif, lúc ông còn làm việc ở nhà máy bột Grands Moulins. Bao lần ông đã nhào nặn niềm hy vọng ấy? Ông thấy mình đang mặc chiếc áo dài djellaba trong sân nhà của bố mẹ, gần cái giếng cũ, dưới tán cây vả oai vệ, xung quanh là bạn bè đồng môn thời trẻ, giờ họ cũng đã thành những ông già nhăn nheo, nhưng không bao giờ ông biết được thế giới bình yên đó.
Ôi quê hương tôi, ánh sáng của tôi, bầu trời của đôi... Ôi quê hương màu mỡ, người mà tôi đã đánh mất... Hãy lắng nghe lòng tôi.
Ông cũng không thể diễn đạt được những gì ông cảm nhận khi thấy đất nước Algeria của mình qua truyền hình vệ tinh.
Chỉ khi nào ở với vợ mình thì ông mới thốt được vài lời. Ông giận những kẻ tham nhũng, những tên xã hội đen, những đứa dối trá, Boutef và tất cả những ai đã chiếm đoạt Algeria.
Từ lâu ông hiểu rằng sẽ không thể tự giải thoát mình khỏi nỗi đau, giọng ông không thể thốt lên. Ông không bao giờ nói hết những gì phải nói. Để làm gì? Ai quan tâm? Nỗi nhớ quê hương như một tấm vải liệm bọc lấy trái tim ông.
Ông cũng không nói về nước Pháp.
Vậy ông nói về chuyện gì? Không nói về gì cả.
Ông đến Tarbeuil-La Grande Tarte vào đầu mùa xuân năm 1969, một ngày tuyết, mùa xuân năm ấy lạnh cóng. Ông mười bảy tuổi. Đêm đầu tiên, ông ở Melun, trong một ngôi nhà chung với những người đàn ông đang run lẩy bẩy dưới tấm chăn. Những người anh em họ cùng chia với ông một tô súp hương vị Bắc Phi. Hơn bốn mươi năm sau, ông vẫn nhớ vị súp nóng hổi đó. Ngày hôm sau, người lớn tuổi nhất nhóm đã đánh thức ông dậy. Họ đã đón xe buýt tới Tarbeuil-Centre.
Từ trên bờ kè, ông nhìn thấy nhà máy bột Grands Moulins. Nhiều tòa nhà bằng gạch ngói sẫm màu rất cao, có một cái tháp khổng lồ với những lan can giả trên thành, một vọng lâu đặt trên đỉnh tháp, phía trên là một mái ngói bằng thép, cao ngang những đám mây.
“Chính chỗ đó,” người anh em họ của ông nói với sự hãnh diện.
“Nó lớn thật.”
“Đương nhiên, Grands Moulins mà.”
Ông im lặng, đôi mắt tròn xoe nhìn nơi không phải quê hương của mình.
Sức mạnh của dòng sông, hình vòng cung, đá hoa cương xanh phản chiều trên mặt nước, dòng nước chảy dứt khoát, bầu trời u ám, mây bay vòng vòng, những chiếc thuyền xà lan san sát bên nhau chờ chất bột, trên đường tuyết phủ đáng gờm...
Ông nhớ mọi thứ.
Ông hối hận đã không kể gì cho Sami, con trai cả của mình. Quá trễ. Sami không nói chuyện với tôi nữa. Chào bố. Tạm biệt bố. Đôi khi tôi lo cho nó. Nó có một cuộc sống tốt, nó là một đứa tốt tính, nhưng nó không có vợ con gì, nó sẽ tự lo cho bản thân như thế nào? Tôi cũng chẳng biết...
Hai tiếng sau khi đến nhà máy Grands Moulins, ông làm những bài kiểm tra, và thứ Hai tới, ông được tuyển vào làm một công việc mà ông chỉ ngừng vào ngày ông về hưu, cách đây vài năm.
Chính tại nước Pháp ông đã làm việc, chính tại nước Pháp ông sẽ chết.
Sami không nhớ đã từng nghe bố mình nói những lời chống đối người Pháp trước mặt. Giờ đây Sami đổ lỗi cho ông. Vâng thưa bố, con giận, vì bố im lặng, vì bố khoanh tay, vì bó buộc suy nghĩ. Bố đâu bị buộc phải chấp nhận mọi thứ. Tự do của bố, nó ở đâu rồi? Sami giận vì ông đã là một người không có dũng khí, bịt tai trước những lời nhục mạ, nhắm mắt trước những bất công. Anh giận vì ông... Anh giận vì ông chưa gì đã già nua và bệnh tật. Ở tuổi của ông! Bao nhiêu tuổi? Sáu mươi tư.
Bố anh cho rằng dân tộc và con người được xem như những cuộc đấu thương do Số Phận định đoạt. Số phận trớ trêu, bắt con người quay lưng đối kháng nhau. Dân tộc, quốc gia, đàn ông, đàn bà và trẻ em đều trong cùng một nồi. Mỗi người trong số họ phải tự tìm chỗ đứng, với sự chính trực, không hơn không kém, đúng vị trí mà Chúa trời đã cho họ sinh ra. Tôi xoay xở cũng không quá tồi. Sami cũng xoay xở tốt. Tôi rất muốn nó nói với tôi, rằng nó đang quen ai đó, rằng nó với cô ta đang xây dựng kế hoạch tương lai...
Làm việc và im lặng! Ông đã làm việc và đã im lặng. Không hối tiếc.
Thời gian trôi nhanh, thậm chí quá nhanh. Nhưng cũng không nhanh hơn những chuyện khác. Hơn nữa vấn đề không còn là sống mà là chết. Ông thở khó nhọc, những nỗi lo bóp nghẹn cổ họng của ông, ông ngạt thở. Ông bận lòng khi biết xương cốt mình sẽ mục rữa trong nghĩa trang Grande-larte.
Còn Sami chưa bao giờ đặt chân tới Sétif. Thật đáng buồn!
Sami chưa bao giờ hít thở không khí trên các đỉnh núi, cũng như chưa bao giờ uống nguồn nước mát chảy ra từ trong núi. Ông chưa bao giờ quay trở về nơi ấy, ngoại trừ lần về chôn cất bố mình. Khi còn trẻ, ông thường hay nói đùa với câu ngạn ngữ “Mỗi sinh linh sẽ nếm mùi cái chết.”
Đó là cách để ông chấp nhận những thử thách trong tương lai. Nhưng ông đã không bao giờ hình dung rằng có ngày mình sẽ không còn sống ở Algeria cũng như hàng ngày phải chịu những lời lăng mạ, ở đây, của những tên da đen bẩn, trong khu phố càng ngày càng không giống Pháp. Và cũng chẳng giống Algeria.
Ông sẽ nằm dưới mảnh đất nào khi thần chết đến mang ông về với Chúa? Hố lấp bê tông? Ông e sợ mình sẽ thành cô hồn chịu kiếp lang thang. Mắt yếu dần làm ông càng lo âu. Nếu mắt ông không còn khả năng nhìn thấy ánh sáng như bao người bình thường khác, làm sao ông có thể nhận ra lòng xót thương của Chúa?
Không phải lúc nào ông cũng là người hèn nhát. Hồi nhỏ, ông đã không ngần ngại, trong chiến tranh, tham gia biểu tình đòi độc lập. Sau này, tại nhà máy Grands Moulins, ông đã tham gia bộ phận công đoàn CGT của nhà máy, hai năm sau đó, ông đã xé thẻ công đoàn của mình. Tất cả đều là những kẻ tha hóa.
Lúc đó ông còn trẻ... Ông vẫn nhớ... Sức sống chảy trong huyết quản.
Những giai đoạn đó giờ là quá khứ, chỉ còn tồn tại trong những giấc mơ thường xuyên của ông, ông thấy mình đương đầu những mối hiểm nguy của thời đó (và nhất là tên quản đốc kỳ thị, là sếp của ông tại Grands Moulins), ông được thiên thần Gabriel bảo hộ, Sidna Djibril thân yêu của ông, sau đó ông về nhà với vợ, đang là một thiếu nữ đầy sức sống, nằm trên chiếc giường trong phòng hoa chúc, xung quanh là những bức tường màu sáng tràn ngập hương thơm xà phòng.
Khi mở mắt, nhìn vợ mình nằm ngủ bên cạnh, một con dê cái già nua, ông không nhận ra đó là người vợ của mình. Còn ông? Ông giống thứ gì? Một con lạc đà kiệt quệ.
Ông để dành những cơn giận dữ cuối cùng cho đám lưu manh lái con xe xịn xò bị chúng cướp trên Quốc lộ 7, cho mấy tên râu rậm đồng lõa với bọn con buôn và hủy hoại tương lai của bọn trẻ trong khu phố đang mong muốn được quay lại với đạo Hồi. Ngồi trước cửa sổ khi màn đêm buông xuống, ông lầm bầm khi nhìn thấy bọn chúng qua lại:
“Làm thế nào tụi Pháp rặt lại có thể chấp nhận để yên như vậy? Biết bao nhiêu là lừa lọc?”
Từ vài tháng nay, chính những tên da đen đầu gấu làm ông bực bội. Bọn này như lũ gián, chúng sinh sôi nảy nở và đám gián con có ở khắp phố phường. Chúng làm mưa làm gió trong khu chung cư. Ông phải cúi đầu khi đi ngang qua bọn chó đẻ này. Sami cũng không thể nhìn chúng. Anh nghĩ hình như chúng làm cho một tên Ả Rập.
Sami chưa bao giờ chống đối bố. Nên giờ anh cũng sẽ không làm chuyện này.
Anh chưa bao giờ biết tìm ra dịp để nói chuyện với bố. Giờ đây lại càng không thể với những bí mật của anh.
Bố anh sẽ chết.
Ông già ra khỏi nhà đi đến đền Hồi giáo mỗi trưa thứ Sáu. Ông đi một vòng cư xá, đường Gustave-Courbet, đường Pablo-Picasso, đường Paul-Cézanne, cho tới tận Đại lộ Général de Gaulle, phía bên dưới mái nhà xanh ve của ngôi đền chiếu lấp lánh.
Trên đường không một ai chào ông, ông cũng không quan tâm chuyện đó, ông không cần ai chào hỏi mình. Hàng xóm không biết tới ông. Thời của ông đã qua, vúuut! Chấm dứt, biến mất, tương lai cũng không có, thậm chí ngay trong suy nghĩ của ông.
Khi ông đi dạo, tay chống gậy, ông gặp những người Ả Rập lỉnh kỉnh túi nhựa đầy rau quả, những bà da đen áo thụng, những đứa trẻ ngồm ngoàm món hotdog hallal, chúng là côn đồ, hay con ngoan, không còn phân biệt nữa, tất cả đều ăn mặc giống nhau, ngay thằng Út mập nhà ông, luôn mang giày Nike, mặc quần jean và áo khoác có mũ. Ông đi ngang qua những bà ăn xin mập mạp ngồi một đống ngay trên vỉa hè, không quan tâm đến họ, ông lắng nghe lời giảng của thầy, cúi lạy trước Đấng tối cao, hâm nóng tâm hồn ông bằng ngọn lửa của Ngài, sau đó ông ra về bước đi chậm chạp, lòng rối bời.
Ông ngồi cả ngày trên chiếc ghề bành trước khung cửa sổ. Cũng may tôi có mấy thằng con trai. Niềm vui của tôi. Mấy đứa dưới, Mohamed, biệt danh Út mập, còn đi học, một đứa trẻ, dáng người lêu khêu, có triển vọng; Abdelhamid đứa nhút nhát, nghiêm túc vẫn đang làm việc tại trung tâm thương mại Youssri. Và Sami đứa con tuyệt vời, tôi mong nó ổn, tôi mong thế. Ông lướt mắt nhìn đường sá thành phố nơi ông đã sống cả đời. Dòng xe hơi, người lũ lượt bước đi, bọn trẻ đá bóng bay tới chỗ ông như đến từ một thế giới khác.
Ở phía xa, khu rừng vẽ một vòng tròn thần bí.
Ông già luôn giữ trong ví tấm danh thiếp của con trai: Sami Bouhadiba, Giám đốc tài chính. Đứa con trai lớn luôn làm ông mãn nguyện. Từ lúc học phổ thông cho đến khi vào đại học, và bây giờ trong công việc, luôn luôn nghiêm túc, không bao giờ ông rầy la nó. Chỉ duy nhất một sự nuối tiếc. Lúc đầu Sami đi dạy, sau khi học xong cử nhân Toán học. Giáo viên thỉnh giảng, rồi thi đậu chứng chỉ Capes [4] . Một thành quả. Ông vẫn muốn nó tiếp tục đi dạy. Thầy giáo là một vinh dự. Nhưng Sami muốn tiếp tục học. Với xuất phát điểm như vậy, ông vẫn hay nói một mình như thế, nó có thể tiến xa hơn, rất xa, cầu thánh Allah phù hộ.
Sami đọc được sự hoảng sợ cao độ trong những lần im lặng của bố. Anh chịu đựng và nguyền rủa sự bất lực đó. Sự bất lực của bố, của anh. Sự bất lực chung của những người Ả Rập. Sự chia rẽ... Sẽ có ngày chấm dứt. Anh thông báo với bố sẽ đi công tác ở Ma Rốc.
“Lâu không?”
“Khoảng một tuần. Hoặc ít hơn, có thể con sẽ về sớm.”
“Cũng đúng, giờ đây với máy bay...”
Ông già nhắm mắt, ngẫm về con người mình, chỉ thấy trống rỗng và nỗi đau. Chuyến đi du lịch ở Marrakech không có gì tốt lành. Cách đây hai năm, Sami đã đi Ai Cập. Anh lưu lại đó quá lâu, anh quay về với một con người khác, không vui vẻ như trước. Ông biết một người bố phải chấp nhận để các con đi.
“Con còn nhớ những trái chà là mà bố mang từ Sétif về không?”
Sami còn giữ hương vị những trái chà là tươi lấy ra từ vali của bố. Tối hôm đó, anh đi ngủ trễ và bố đã mang tới tận giường anh trái chà là cuối cùng. Anh ngủ thiếp khi nghĩ đến những người dân sa mạc, ở trên đỉnh núi tuyết của Sétif, trong suốt hành trình của bố anh. “Con mua chúng ở Marrakech, để chúng ta có thể so sánh, con tin chắc chúng ngon không kém.” Sami ôm chặt bố trong im lặng, ôm hôn mẹ thắm thiết trong nhà bếp, và mở cửa ra về. Sau khi cánh cửa khép lại, bố anh khóa chốt. Bố mẹ anh sống trong một nhà tù.
Tiếng động trong cầu thang làm anh nhức óc. Tiếng rập rình của dàn âm thanh làm rung chuyển các bức tường và cánh cửa. Những sợi dây thần kinh của anh cũng thế. Anh lấy hơi để bước xuống.
Mùi hôi nồng nặc trong khu vực chết chóc. Nặng mùi thuốc đá và bùn châu Phi. Trên tường, những hình vẽ bậy bạ. Trên trần những bóng đèn hoặc bị hư hoặc bị trộm mất, tối om. Sami thoáng nhìn thấy trong một góc vài tên đang vật vờ say thuốc và bia rượu. Hai con chó rottweiler điên dại, cổ đeo vòng đinh nhọn, chúng đang quần nhau và chảy nước dãi trong cái rọ mõm. Sami băng qua sảnh cố gắng không đụng chạm ai. Cả chục đứa thanh thiều niên đang cãi nhau. Mấy thằng da đen dơ bẩn, chúng cao to gấp đôi bố, ông ấy chỉ là một cọng cỏ khi đứng gần chúng. Tệ hại nhất là ông gặp chúng ở thánh đường. Ngày nào đó cần phải dọn sạch những bè lũ này, trở về với sự thật. Máy radio của bọn chúng phát những bản nhạc rap ngu xuẩn. Tiếng nhạc dập ầm ĩ lần át tiếng la hét từ một vụ thanh trừng - chỉ là chuyện dạy dỗ nhau thôi - vọng ra từ một khu vực kỹ thuật của tòa chung cư, được sử dụng như một siêu thị nhỏ buôn bán ma túy đá, do hai tên vạm vỡ canh gác.
Sami và hai đứa em, cũng như bố và tất cả người dân của chung cư đã học cách trở nên vô hình. Họ không nhìn thấy những tên côn đồ và hy vọng chúng cũng không nhìn thấy họ. Tình hình hiện nay sẽ tiếp tục kéo dài hoặc không. Sami đã nhiều lần đề nghị bố dọn đi nơi khác ở. Ông già không muốn nghe nói đến. Nhà của ông ở đây, trong căn hộ ba phòng này; Tarbeuil-La Grande Tarte, là ngôi làng của ông. Ông viện cớ người ta đang tiến hành trùng tu trong khu phố để không phải đi.