❖ 15 ❖ Tarbeuil-La Grande Tarte, ngoại ô Paris, Pháp
Tôi làm việc tại Inrap từ khi viện được thành lập vào năm 2002. Ồ xin lỗi! Tại Viện Quốc gia nghiên cứu bảo tồn khảo cổ. Một cơ quan đảm nhận việc phát hiện và nghiên cứu các di sản khảo cổ đang bị các dự án quy hoạch đất đai đe dọa. Nhiều người không ưa chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ thọc gậy bánh xe. Những kẻ tìm cách trì hoãn việc khai thác, làm mất miếng ăn ngon. Thường trên những mảnh đất xây dựng đường xa lộ, đường tàu cao tốc, các khu thương mại, chỗ nào có xe ủi đi qua chỗ đó bao giờ cũng khám phá được những vết tích cổ xưa không ngờ tới. Thế là một cuộc chạy đua với thời gian bắt đầu (nếu chủ đầu tư có tâm sẽ không để các xe ủi đất san bằng tất cả, chuyện có thể xảy ra) bởi vì cũng dễ hiểu rằng những người này, chủ đầu tư, nông dân, chính quyền địa phương hay người kinh doanh bất động sản, họ đều muốn đẩy nhanh các dự án của mình. Những nhà khảo cổ học bỗng như “từ trên trời rơi xuống”, khẩn cấp đánh giá những phát hiện, kiểm kê và cứu được những gì có thể cứu.
Inrap ra đời cho thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu khảo cổ ở Pháp từ những năm 1970. Tôi là một trong những người lính thuộc lực lượng tác chiến ôn hòa này, rất vui khi được quay trở về Pháp sau nhiều năm sống ở nước ngoài. Trong hai năm, tôi đã thực hiện nhiều chuyến công tác (khoảng một chục) trên đất Pháp. Một trong những chuyến đi đầu tiên của tôi đã đưa tôi đến Wissou, một vùng đất đắc địa ngay sát sân bay Paris-Orly, một di tích đồ sộ của người Gaulois đã được phát hiện ở đó, trên khu đất của Parisii, cho thấy trước đây là một trang trại khổng lồ có từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Di chỉ bằng kim loại, công cụ, trang sức, bình hai quai thời La Mã cung cấp thông tin về những hoạt động đã diễn ra tại Wissou, cũng như cuộc sống thịnh vượng của người dân thời bấy giờ, các kết nối giao thương và sự tồn vong của nơi này.
Tôi không ngờ rằng mình lại vui mừng khi được góp phần nhỏ bé vào việc kiểm định lại một thời kỳ của lịch sử người Gaulois. Chuyến công tác đó đã đưa tôi quay về với thời xa xưa của nước Pháp. Di chúc quốc gia cổ xưa của dân tộc. Xứ Gaule, hạt mầm của nước Pháp, đang ngọ nguậy trong khu rừng Xen-tơ. Người Gaulois, những con người bán du mục với thân thể to lớn, da trắng và nhũn, những kẻ chiến bại, đã không được những nhà nghiên cứu lịch sử đoái hoài tới. Và tôi khám phá ra những cuốn sách của Camille Jullian, Giáo sư trường Collège de France, bằng cách nào đó đã tái dựng lại xứ Gaule như chúng ta đang khai quật vào nửa thế kỷ sau.
Từ lúc đến thành phố Cairo, tôi không ngừng trải nghiệm cuộc sống của người xa xứ. Thật ra cuộc sống luôn trôi nổi, mới lạ, tiện nghi, bơ vơ nơi xứ người, không một mối quan hệ nào ngoài công việc, cũng có phần dễ chịu. Khi hít thở không khí ở xứ lạ quá lâu thì người ta thường sẽ quên đi nguồn gốc của mình và có thể thậm chí quên luôn chính bản thân mình. Vì thế, chuyến công tác tại Wissou là dịp quay trở về quê hương mà tôi mong đợi, và dù có ngạc nhiên, khi tôi kết nối lại với nơi mình sinh ra, lại là lúc nhận thấy rằng đồng hương của tôi, những người chưa bao giờ đi xa, có vẻ cách biệt với đất nước này, đến nỗi họ chỉ còn giữ một nối kết lỏng lẻo và khá mờ nhạt với thực tại cũng như với lịch sử của nước Pháp.
Chính quyền xã Tarbeuil-La Grande Tarte (không quá xa Wissou) đã quyết định xây dựng một trường tiểu học mới, thế chỗ khu dân cư tự phát. Những công nhân tại công trường đã phát hiện những vết tích thời Trung đại tại nơi gọi là Thiên đường. Tôi đến Tarbeuil-La Grande Tarte ngày hôm sau, khi cuộc khai quật ở Wissou kết thúc. Bản hợp đồng trách nhiệm ghi rõ tòa nhà mới sẽ được đưa vào hoạt động ở ngày khai giảng tới. Chúng tôi cần phải tăng tốc gấp đôi.
Mãi một thời gian sau đó tôi mới để ý tới người đàn ông già nua ngồi quan sát chúng tôi hàng giờ từ một tòa nhà nằm ở phía trên khu khai quật. Chúng tôi cũng bắt đầu quen sự hiện diện thầm lặng của ông ta. Tư thế bất động, thân thể gầy mòn, hai tay chống nạnh, những ngón tay xoạc ra, ánh mắt cố định (hơi xa xăm) về phía công trường làm việc của chúng tôi, và nụ cười nhếch mép không cử động làm cho ông ấy trở nên bí hiểm. Tôi tự hỏi liệu ông ấy có bị di chứng sau cú đột quy hay không. Ông ấy như một bức tượng nghiêng về phía trước. Một tác phẩm của Rodin, phiên bản Giacometti. Chúng tôi quen với sự hiện diện thầm lặng của ông. Nếu vì lý do nào đó ông không xuất hiện như thường lệ, chúng tôi lại lo lắng, chúng tôi tự hỏi không biết đã có chuyện gì bất hạnh xảy đến với ông hay không, chúng tôi mong ông ấy.
Một buổi tối nọ, trước khi ra về, tôi đã đến gặp ông ấy và xem ông ấy có hỏi gì về công việc phía dưới của chúng tôi hay không, tôi rất vui được trả lời các câu hỏi của ông. Vậy là ông bắt đầu giới thiệu về mình: “Ông Bouhadiba, trước làm việc tại Grands Moulins.” Rồi ông bất ngờ đưa những thông tin khác: “Tôi gốc người Sétif, người Algeria...” Ông nhanh chóng rút ra từ trong túi một bài báo được cắt từ một tờ báo Algeria về việc tu bổ một bức bích họa thuộc đầu thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên và được tình cờ tìm thấy trong khu thánh đường ở Sétif, sau nhiều trận mưa dai dẳng. Tấm bích họa này đã được chuyển về bảo tàng cũ vào năm 1968, sau đó, về bảo tàng Khảo cổ quốc gia của Sétif vào năm 1985. Trong một lần phỏng vấn, bà Bộ trưởng Văn hóa Algeria giải thích về ý nghĩa và tầm quan trọng của một tác phẩm như thế, nhấn mạnh rằng những bức tranh khảm, ký ức của thần thoại và văn chương, minh chứng cho nền văn hóa và sự giàu có của xã hội Bắc Phi La Mã.
Cuộc trò chuyện đầu tiên này lại hơi mất tương xứng. Tôi đặt câu hỏi, còn ông ấy thì trả lời nhát gừng, thủ thế. Không như tôi suy nghĩ, chính ông cũng không có thắc mắc gì về công việc chúng tôi đang làm. Có vẻ ông hiểu những gì chúng tôi làm, cố gắng giải thích bằng những ngôn từ đơn giản, sự khâm phục của ông trước công việc của chúng tôi.
Ngày hôm sau, ngay khi ông Bouhadiba xuất hiện, tôi đi đến chỗ ngồi quan sát của ông, dành cho ông sự bất ngờ. Tôi đã chuẩn bị trước ý đồ của mình. Tôi mở máy tính xách tay Toshiba trước mặt ông, bắt đầu gõ và không nói rõ cho ông ấy biết tôi đang tìm kiếm gì. Các sinh viên và đồng nghiệp ngước nhìn về phía tôi ánh mắt dò xét. Không ai có thể nghĩ rằng tôi đang cho ông ấy xem những đoạn phim về những tàn tích La Mã ở Sétif và những đoạn phỏng vấn các đồng nghiệp người Algeria. Thậm chí tôi còn tìm thấy đoạn phỏng vấn bà Bộ trưởng mà ông đã nhắc tới. Bouhadiba không rời mắt khỏi những gì ông đang xem, ánh sáng màn hình hắt lên gò má xám xịt của ông, và nhiều lần tôi để ý thấy gương mặt ông rân rân, như thể ông muốn khóc. Ông mỉm cười, và bằng một động tác chậm chạp, hơi vụng về, ông nắm vai tôi để cảm ơn. Qua những ngón tay đặt trên vai tôi, tôi cảm nhận được sự gầy mòn của ông, những khúc xương ngón của bàn tay, cảm xúc của ông, ông run lên. Tôi rất vui khi đứng đó.
Qua những lần trò chuyện với ông mỗi ngày, tôi biết được rằng chúng tôi xấp xỉ tuổi nhau. Ông có ba người con trai, trong đó một đứa đã tốt nghiệp kỹ sư. Đó là đứa con cả, nó tên Sami.
Sami là niềm kiêu hãnh của ông. “Một đứa trẻ ngoan,” có lần ông nói với tôi như vậy. “Nó cũng sử dụng Internet. Thậm chí quá nhiều thời gian trên đó, theo như tôi được biết.” Tôi đã hiểu rằng ông ấy mơ ước cùng xem những đoạn phim đó với con trai của mình. Tôi ghi lại một số trang Wikipedia và Youtube trên một mảnh giấy cùng với số điện thoại và địa chỉ mail của tôi. “Con trai của ông sẽ biết phải làm gì, thậm chí cậu ấy có thể tìm cho ông những đoạn video khác. Nói cậu ấy liên lạc với tôi nếu cần thêm thông tin.”
Ông Bouhadiba đã không bao giờ cho tôi biết rằng Sami có cho ông xem thêm những video khác không, Sami cũng không liên lạc với tôi. Gương mặt của ông luôn rạng ngời khi nói về đứa con trai lớn, nhưng ông chỉ nhắc đến chứ không kể nhiều. Tôi nhìn thấy nỗi lo trong sự thẹn thùng của một người bố. Ông không hiểu vì sao với địa vị và công việc như vậy, nó lại không cưới vợ. Một hôm, ông ấy suýt nói ra suy nghĩ của mình, nhưng rồi lại thôi. Tôi nghĩ rằng ông ấy đang tự hỏi liệu con trai mình có phải là người đồng tính và đối với ông đó là một nỗi ám ảnh.