← Quay lại trang sách

❖ 4 ❖ Valletta, Malta

Rifat vừa có một cuộc đối thoại dài qua điện thoại với ngài Đại sứ, vẫn còn ở Paris. Ông lợi dụng sự vắng mặt của vị Đại sứ để triển khai một loại nội quy của Đại sứ quán liên quan đến các thực tập sinh. Đa số có mối quan hệ rất mập mờ với cấp trên. Hôm qua, một cô sinh viên trường Khoa học Chính trị đã làm ông ấy tức giận. Trong dự án ông soạn thảo từ một tuần nay và đã nhờ cô thư ký đánh máy, ông yêu cầu các nữ thực tập sinh, những đứa nhãi nhép , phải làm việc dưới quyền và sự kiểm soát của ông. Chỉ cần ngài Đại sứ xác nhận bản thảo của ông khi quay lại. Ông đang suy nghĩ tới đó thì cô thư ký hét lớn qua vách ngăn:

“Rifat! Ngài Đại sứ... Gấp.”

“Tôi vừa nói chuyện với ông ấy.”

“Gấp, tôi chuyển máy cho anh.”

Ngài Đại sứ bắt đầu bằng lời xin lỗi có chút đạo đức giả vì quấy rầy qua điện thoại và tranh thủ hỏi ông ấy đang làm gì:

“Thưa ngài Đại sứ, tôi đã nói với ngài về chuyện đó, tôi phụ trách về nội quy cho các thực tập sinh, thái độ của họ thường rất không chấp nhận được.”

“Tụi nó giúp được nhiều việc. Anh có tin gì về thằng bé Somalia ở bệnh viện không?”

“Có, thưa ngài, tôi theo dõi vụ này, thằng bé khỏe hơn nhiều rồi.”

“Rifat, nó khỏe đến nỗi giờ nó chết rồi. Hôm qua, vào buổi trưa. Bộ trưởng Bộ Nội vụ vừa gọi cho tôi qua điện thoại. Anh không biết tin? Vậy thay vì siết mấy đứa thực tập sinh, anh hãy nhanh chóng vào bệnh viện và gọi điện lại cho tôi.”

Tại bệnh viện Mater Dei, ông gặp các bác sĩ đã chăm sóc anh trai của Habiba. Lúc bắt đầu nói chuyện, ông nhận ra hai người đàn ông này nhìn ông bằng sự nghi ngờ nào đó. Có phải các anh ngạc nhiên khi một nhà ngoại giao người Pháp lại có nước da sẫm màu như vậy? Không, tôi không phải người Somalia, mà là người Pháp, gốc Ai Cập... Ông lấy giọng của Đại biện để hỏi các bác sĩ, họ xác nhận đứa bé Somalia đã bị ám sát trong phòng điều trị. Máy hỗ trợ hô hấp đã bị ngắt, nó bị bóp nghẹt bằng tấm vải được tìm thấy ở chân giường.

“Báo chí đã biết chuyện này chưa?”

“Hiện tại thì chưa,” bác sĩ trưởng trả lời, một người đàn ông trạc ba mươi tuổi. Chúng tôi báo cảnh sát ngay khi phát hiện nó đã chết, các thanh tra đã đến hiện trường khoảng 5 giờ chiều. Gia đình đã biết chuyện. Hình như đứa em gái đã báo tin cho các anh em họ đang sống trong một trại trên đảo.”

Trở về phòng làm việc của mình, sau khi điểm tình hình với hai cảnh sát ở đồn, cuối cùng ông cũng có thể lo bữa tối dành để tiếp một vài tay Malta chơi rượu Bordeaux nghiệp dư, rất được chào đón từ những người trồng nho Saint-Émilion. Ông thích được mời đến một hội chơi rượu Bordeaux nhờ vào những tên Malta này. Ông bắt đầu đọc những phiếu trong sách của nhà phê bình rượu Parker thì có một cuộc gọi trực tiếp vào điện thoại của ông:

“Alo Rifat? Anh khỏe không? Không có hành hung cô thực tập sinh chứ?”

“Không, thưa ngài.”

“Thế người ta nói gì với anh ở bệnh viện?”

Rifat báo cáo lại với ngài Đại sứ.

“Một lần nữa, Rifat, anh lại trả lời trật trìa rồi. Nó không chỉ chết mà xác của nó cũng biến mất.”