❖ 8 ❖ Courcy-la-Chapelle, Aisne, nước Pháp
Sau khi đọc tin nhắn của Marie-Hélène (bố anh đã qua đời sáng nay, em thành thật chia buồn với anh), Bruno hủy chuyến đi đến Malta và ghé qua biệt thự. Ông sếp già có những lời an ủi đúng lúc và quan tâm đến ngày tang lễ: “Tôi không biết nữa, tôi cần nói chuyện với các anh tôi.”
“Có lẽ anh nên đi liền, nếu được.”
Thật là thời điểm tồi tệ, bắt đầu kẹt xe ở khu vực Bercy, hướng ra xa lộ A4 ùn tắc. Tin giao thông cho biết cần chín mươi phút để đến trạm thu phí cầu đường Coutevroult và thông báo có heo rừng trên tuyến đường nối hướng Metz. Những hàng dài xe hơi, thanh giảm chấn trước đụng thanh giảm chấn sau, tiến về phía trước hai mươi mét, rồi lại dừng, rồi lại tiếp tục với tốc độ ốc sên. Bruno lục lại những kỷ niệm về bố. Anh nối những mảnh ghép cuộc đời mình, những ký ức phản bội anh, những hình ảnh và những tên gọi bị lấy đi, anh như rơi vào một cái giếng và chỉ nắm bắt vài mảnh rời rạc trong cú ngã ấy, không nguyên vẹn, mờ nhạt, như thể cái chết đã đào sâu hố ngăn cách giữa bố và anh.
Anh như nghe thấy giọng của bố (chất giọng ấm, chậm rãi, với ngữ điệu người Pháp gốc Algeria mà ông không bao giờ từ bỏ), bố kể lúc họ đặt chân tới Pháp năm 1962, những cuộc ẩu đả trên tàu, mọi hành lý của họ (tất cả những gì họ có thể mang theo) bị những công nhân bốc xếp của Tổng liên đoàn lao động ném xuống dòng nước của cảng Marseille. Chuyến tàu đến Paris. Niềm an ủi khi nhìn thấy ai đó trong gia đình chờ đợi họ trên bờ kè ở ga Lyon, sau đó là cái sốc, cái lạnh, nỗi cô đơn, thiếu tiền, và nhất là sự đón tiếp hờ hững của đất nước đã từ chối họ.
Cái lạnh mà bố anh nói đến, lạnh hơn cả sương giá và bầu trời xám, đó là cái lạnh của người Pháp lục địa, sự đón tiếp lạnh lùng của họ. Nhiều lần, ông cảm thấy oán hận. Thời gian đầu khó khăn. Một bà cô đã cho họ ở nhờ trong một căn nhà nhỏ không hề tiện nghi (không lò sưởi, không nước nóng) trong một ngôi làng nhỏ gần Château-Thierry. Bố của Bruno đã tìm được công việc giảng dạy môn Lịch sử (ông dạy học ở Alger) nhưng ông phải nghỉ làm sau khi một viên cảnh sát tố cáo ông là cựu thành viên Tổ chức quân đội bí mật, điều này hoàn toàn không đúng.
Bố chỉ kể với anh đúng một lần về lần quay lại đó. Sau này, khi hỏi ông, anh chỉ nhận lấy sự im lặng, khiến Bruno hiểu ra điều không thể vãn hồi. Bố mẹ mãi mãi không nhắc đến Algeria, họ tự khóa miệng. Nói thì có ích gì? Vì chẳng ai muốn nghe và hiểu, chúng ta đừng nói, dù người mẹ tội nghiệp của anh thỉnh thoảng lẩm bẩm một mình: “Thật uổng phí...”
Anh nhớ về một bức ảnh, chụp toàn cảnh Alger, hình đen trắng, trong một chiếc khung bằng gỗ thông bá hương trên bàn, trong phòng ngủ của bố mẹ. Hai hình chân dung nhỏ, khá mờ, một người đàn ông trẻ tuổi với mái tóc bóng mượt vuốt về phía sau và một người phụ nữ đeo kính mát, được gắn vào bầu trời trong bức ảnh, bên phải.
Theo thời gian, mọi thứ đều ổn. Bố tìm được công việc ở ngân hàng, vẫn ở Château-Thierry, mẹ (đã mất cách đây 10 năm) đi dạy thêm các lớp toán và họ có thể mua lại căn nhà thuê, sau đó tu sửa và nới rộng, nơi mà anh em Bruno đã lớn lên, anh chỉ giữ những kỷ niệm đẹp về ngôi nhà đó.
Anh không giỏi định hướng. Một khu thương mại rộng vô tận, một nhà hàng Nevada Grill, một tiệm McDo, một siêu thị Leclerc lưu động, những vòng xoay ở mỗi ngã tư; vùng nông thôn bị những mái tôn và bê tông nuốt chửng. Khi anh ra khỏi vùng ngoại ô công nghiệp này, anh đi theo đường quốc lộ chạy dọc sông Marne, tiếp đến là đường liên tỉnh bao quanh là rừng và cánh đồng trồng trọt.
Ngôi nhà nằm ở cuối làng. Bruno đậu chiếc Audi trên vỉa hè, trước tiệm bánh mì cũ. Anh hạ thấp cửa kính và tranh thủ hít thở tìm kiếm dưới làn không khí ẩm ướt một mùi hương gợi nhớ thời thơ ấu. Anh nhìn bao quát ngôi nhà. Nhỏ nhắn, mái ngói gạch màu đỏ, phần mở rộng được phủ đá đen, cùng một hiên nhà, một bãi cỏ nhỏ, một cây anh đào, một cây táo tây, một hàng cây phúc bồn tử trải dài theo bức tường con bằng gạch nén để che đi ngôi nhà xấu xí của hàng xóm. Hai anh đang đợi Bruno trong nhà ăn. Trao nhau những cái bắt tay, vài lời than phiền về giao thông. “Mọi người đã chờ cậu hai tiếng đồng hồ...” Không có gì ngạc nhiên, từ lâu đối với họ, mối quan hệ chỉ còn là sự hiềm khích không còn cần che giấu. Có gì đó đã rạn nứt.
“Em có thể nhìn bố không?”
“Bố đang ở trong phòng ngủ. Bố cũng đang đợi cậu...”
Căn phòng chìm trong cảnh nửa sáng nửa tối. Bruno ngồi bên cạnh thi hài bố và nhìn thẳng vào gương mặt ông như thể anh muốn khắc sâu gương mặt đó trong anh. Vẻ bình yên, khép kín, một làn da ánh xà cừ, khuôn miệng ngẩng lên, thể hiện nỗi đau khổ hoặc ngược lại là hé nở nụ cười vĩnh biệt, những lúm đồng tiền đã chùn xuống, mái tóc màu xám rối rũ bên phải.
Anh cảm thấy trống rỗng. Tình cảm dành cho bố không được nói đến, nhưng nỗi đau vẫn cứ âm thầm. Nỗi đau ấy không bộc lộ ra. Đối diện với cái chết, anh không nghĩ ngợi gì cả. “Cuộc sống, rồi cũng chỉ kết thúc như thế,” anh nói lớn giọng, như muốn gửi đến bố, “thật uổng phí như mẹ đã nói, và lãng quên...” Khi phát âm từ uổng phí, anh nghĩ đến Marie-Hélène và các con gái.
Cuộc sống của mình với Marie-Hélène đã độc tôn và loại bỏ những mối quan hệ máu mủ ruột thịt hay thân thiết mà lẽ ra mình có thể có với người này người kia, cũng như với anh em của mình. Mọi thứ đều uổng phí. Nếu tự tìm cho mình một người bạn thật sự trên thế giới này, quả thực mình sẽ tìm không ra.
Anh nhìn thấy tấm ảnh trên bàn cạnh giường. Hai gương mặt luôn mỉm cười với cuộc sống, bên dưới là thủ đô của Algeria. Bố mẹ anh đã rời khỏi ngôi nhà, khỏi bạn bè, khỏi nơi chôn cất và chấp nhận số phận của mình. Im lặng là cái giá phải trả cho sự cam chịu của họ. Bruno tự hỏi bố đã như thế nào trong sự im lặng đó. Tấm hình như thôi miên khiến anh thấy rồi bời. Anh muốn bước vào khung ảnh, chen vào giữa bố mẹ, cùng họ mỉm cười trong bức ảnh.
Trao đổi ngắn ngủi với các anh về đám tang vì hai anh đều vội quay về. “Cậu biết đấy, chúng tôi còn có công việc...” Hàm ẩn, không như cậu, ở đồn cảnh sát... Bruno giữ các anh lại để hỏi thêm về việc vì sao bố mất.
“Bố đã rời khỏi viện dưỡng lão cách đây một tuần, ông chỉ làm theo ý muốn cá nhân. Anh biết ông ấy rồi đấy, vô cùng cứng đầu, ông cho rằng mình có thể tự xoay xở. Người ta đã phát hiện bố mất trên giường ngủ. Do một cơn đau tim.”
“Còn về việc chôn cất, mọi người đã có dự định gì chưa?”
“Cậu sẽ biết thôi, có một xấp tài liệu Tang lễ trên bàn ăn. Về mặt nguyên tắc, chúng ta chờ Thị trưởng phê duyệt, bố sẽ được chôn cất trong hai ngày tới. Trưa thứ Năm. Bố đã thu xếp trước cho mình một khu mộ...”
“Sẽ tổ chức lễ nhà thờ chứ?”
“Lễ nhà thờ? Rõ là cậu đã quên ở đây người ta tiến hành như thế nào. Nhưng nếu cậu muốn, tụi này không phản đối...”
Họ rời đi và thống nhất trao đổi thông tin vào buổi tối.
Không ngạc nhiên, nhưng thái độ của hai anh khiến Bruno bối rối, anh nghĩ về tình cảm giữa mọi người ngày xưa khi cùng nhau đến nhà cha xứ, nơi ông dạy giáo lý cho cả ba anh em. Mẹ thường đi lễ và đã được an táng theo nghi thức tôn giáo, còn bố theo đạo Công giáo nhưng không đi lễ thường xuyên. Bố không để lại lời trăn trối nào nhưng rõ ràng không có lý do gì tước đi thánh lễ cuối cùng của bố.
Đầu tiên, anh nghĩ mình nhầm khi đến nhà cha xứ. Những khóm hoa hồng mà vị linh mục đã kiên trì chăm sóc, bón phân và cắt tỉa đều đặn, giờ đã bị nhổ đi và khoảng đất trồng ấy đã đổ nhựa bitum. Mặt tiền được đổi mới. Những bức tranh sặc sỡ, đá mài sắc bén. Khó mà nhận ra được ngôi nhà. Bruno bấm chuông cửa. Một người hàng xóm hỏi anh.
“Có phải đến thuê nhà không?”
“Tôi đến tìm linh mục.”
“Đáng tiếc thay, ông ấy đã chết cách đây hai năm. Chính tôi đã mua lại nhà xứ, trong một tình trạng... Tôi cho khách vãng lai thuê, nếu anh quan tâm.”
“Ông biết có nơi nào có thể tìm một vị cha xứ không? Cho việc mai táng...”
Anh tẩn mẩn đi khắp những vùng lân cận trước khi nhận ra rằng không thể tìm thấy vị linh mục nào để mai táng bố. Phần lớn các nhà thờ đã đóng cửa, và những xóm đạo chỉ để lại những tin nhắn hờ hững trên hộp thư thoại. Vì tò mò, anh trở lại ngôi nhà thờ ở làng. Cửa chính mở, cánh cửa đung đưa. Khi bước vào, đập vào anh là sự trống trải và mùi hương. Những chiếc ghế tựa và ghế dài đã biến mất. Các thánh đã bị kéo ra khỏi vị trí của mình. Tượng thánh Jeanne d’Arc bằng thạch cao với cánh tay vươn ra đón lấy những con chiên, đã bị lật ngã, mất đầu và ngọn cờ. Vô số rác rưởi, những phần còn sót lại của nơi sinh hoạt, một cái nệm cũ và những vỏ chai rỗng chứng tỏ có những vị khách không tên đã tìm thấy chỗ trú ở một trong những nhà nguyện cạnh bên. Những cây đèn nến vỡ thành từng mảnh, những cây thánh giá trên tường đã bị dỡ xuống và dĩ nhiên là để bán. Khi nhìn thấy những biểu tượng tôn giáo được khắc trên trần nhà thờ trong thời kỳ cách mạng, anh tự nhủ thời kỳ của mình có lẽ còn kinh khủng hơn thời kỳ năm 1789. Phía sau bàn thờ, đền tạm bị nứt. Trống rỗng. Tiếng gió rít qua mấy cửa kính màu vỡ, nhà thờ dường như đang rên siết. Anh thấy bàng hoàng trước sự hoang tàn của thánh đường này, nơi anh từng đến, vào mỗi Chủ nhật rộn ràng những bài thánh ca của các tu sĩ dòng Benoit trong chiếc áo lễ, những người đến từ tu viện gần đây, nơi luôn phảng phất một không khí trầm mặc. Anh lại nhớ đến cái chết. Anh thấy mệt mỏi, nặng nề. Không đơn giản chỉ là anh đã mất bố, người anh yêu quý, bỗng nhiên đi xa, mà cả quê hương của tuổi thơ anh.
Họ để lại chìa khóa. Anh bước vào không một tiếng động, đến viếng thăm bố, nhìn mặt bố một lần nữa, sau đó tìm trong phòng ăn tập hồ sơ Tang lễ trên bàn. Anh gọi cho công ty theo số điện thoại được viết tay trên bìa hồ sơ. Các anh đã nhờ Bruno lo việc tổ chức lễ mai táng. Một người phụ nữ nhấc máy.
“Mai táng cho ai?”
“Cho bố tôi.”
“Xin gửi lời chia buồn đến anh, đây luôn là một thời khắc buồn, chúng tôi sẽ luôn ở bên cạnh anh. Anh theo Hồi giáo hay Công giáo?”
“Công giáo.”
“Tôi hỏi anh điều này vì chúng tôi đang có dịch vụ đặc biệt dành cho người Hồi giáo, theo đúng luật suna. Còn anh theo đạo Công giáo. Thánh lễ sẽ diễn ra ở đâu?”
“Sẽ không có thánh lễ. Tôi không tìm được linh mục.”
“Tôi hiểu. Tốt nhất anh nên ghé qua văn phòng ở Château-Thierry, tôi sẽ đưa anh catalog.”
Cô nhân viên dáng người nhỏ nhắn, hơi đầy đặn cùng mái tóc nâu ngắn hợp với tuổi, đón tiếp anh bằng nụ cười chuyên nghiệp phù hợp với hoàn cảnh.
“Anh đã nghĩ đến việc chọn áo quan như thế nào chưa? Bố anh bao nhiêu tuổi?”
“Bảy mươi tư tuổi.”
“Chúng tôi có những mẫu áo quần dành cho thế hệ baby boomer . Thông thường họ thích nhạc rock và bóng đá. Chúng tôi có mẫu Azur foot hoàn toàn hợp với người hâm mộ sân vận động. Hay mẫu Gibson vĩnh cửu , nhìn rất lạ, dành cho những ai yêu thích đàn guitar. Cũng chung một thể loại, chúng tôi có mẫu Vagabond , hình dáng chiếc xe cắm trại, những người ở thế hệ này thích những chuyến đi và sự tự do. Họ cũng có lý đấy...”
“Tôi thích mẫu cổ điển hơn.”
“Chúng tôi có một mẫu rất đơn giản tên là Papa .”
“Tôi sẽ lấy mẫu Papa .”
“Còn về việc mai táng ở nghĩa trang, chúng tôi có một MC. Ông ấy sẽ hướng dẫn anh từng bước, ra dấu cho việc nhập quan lần cuối, phát hoa, những đóa hồng bằng giấy để thả vào huyệt cùng những thông điệp cá nhân để tiễn đưa người chết trong hành trình dài về nơi vĩnh hằng, sau đó kết thúc bằng việc ông ấy sẽ đọc một bài diễn văn nhân danh anh, anh có anh chị em gì không?”
“Hai người anh...”
“Vậy thay mặt cả ba người, ông ấy sẽ đọc một bài diễn văn an ủi các anh qua những câu từ: ‘Bố không ra đi, ông đang đợi chúng ta ở bên kia thế giới.’ Nhìn chung mọi người thích vậy.”
Bruno không còn chút sức lực nào để lên tiếng. Mọi căng thẳng trong ngày khiến anh buông thả. Anh kí bản dự toán. Cô nhân viên đưa ra tận cửa. Anh kiểm tra tin nhắn trên hộp thư thoại. Viện nghiên cứu khảo cổ học dự phòng quốc gia gửi anh thông tin liên lạc của một người thầy cũ, đang tìm cách liên lạc với anh. Grimaud... Một người thầy mình rất quý... Lạ thật... Thầy cần gì ở mình nhỉ... Khi chào tạm biệt cô nhân viên vừa khóa cửa hàng, trên vỉa hè, anh đánh liều hỏi một câu tỏ vẻ quan tâm:
“Cô sống ở vùng này à?”
“Không, tôi quay về Paris, tôi đang vội vì phải lên tàu trong hai mươi phút nữa.”
“Tôi cũng quay về Paris, tôi đi xe, tôi có thể đưa cô về...”
Cô ấy sống trong một studio gần ga phía Đông, phía trên một nhà hàng Thổ Nhĩ Kỳ.