❖ 14 ❖ Valletta, Malta
Lambertin đã gọi Bruno: “Anh hãy đến Malta. Cất cánh ở Orly, 11 giờ 15. Việc khẩn.” Ngay sau khi máy bay chạm đất Malta, sự hồi tưởng về Marie-Hélène hiện lên mạnh mẽ trong suy nghĩ. Anh có thói quen liên lạc với cô ngay khi đến một nơi nào đó. Phản xạ có điều kiện. Hiện tại, chính cô là người bắt lấy anh sau mỗi lần anh hạ cánh. Phản xạ biến thành cơn sóng thần đập vào đầu, anh cảm thấy quá sức.
Trong khi máy bay đang chạy trên đường băng, anh không thể không gửi cho cô một tin nhắn: Ở Malta vài ngày, hôn hai con gái yêu. Bánh xe máy bay kêu kèn kẹt, máy bay vòng về phía tòa nhà của sân bay, những ô cửa số nhỏ phủ một vệt sáng màu trắng. Hành khách đứng dậy, lấy hành lý của họ, gọi vài cú điện thoại, tiếp viên đọc thông báo đón tiếp: anh vẫn ngồi co ro trên ghế. Nín thở. Mày bị gì vậy? Mày không thể làm gì nếu thiếu cô ấy sao? Mày không hiểu rằng cô ấy không hề quan tâm những gì mày làm? Mày nghĩ cô ấy sẽ trả lời mày?
Anh bước đi giữa dòng khách du lịch, dùng cầu thang cuốn, hướng về phía cổng Không khai báo . Anh nhìn đồng hồ: máy bay đã hạ cánh chưa được mười phút. Lambertin đã lo liệu mọi thứ. Một đồng nghiệp từ Roma chờ anh ở đối diện cửa ra. Họ chưa bao giờ gặp nhau nhưng nhận ra nhau ngay lập tức. Anh ta giới thiệu cho Bruno những người bạn ở phòng hình sự Malta. “Sẽ xong nhanh thôi, họ không đông nhưng đó là những người đáng tin. Chúng ta gặp họ trong vòng một tiếng nữa. Tôi quay về Roma vào sáng mai, nhưng tôi sẽ để lại xe hơi cho anh. Tôi đã đặt khách sạn cho anh trong một tuần tại Valletta. Nếu anh cần bất kì gì, cứ gọi cho tôi.”
Họ lái chiếc Ford Escort đã thuê trước. Nóng kinh hoàng. Đại lộ rợp những cây cọ, một nhà nguyện nhỏ, những cây xương rồng, một công trình hình dương vật nhiều màu, những ngôi nhà thấp, những thành phố màu trắng.
“Anh có biết chuyện gì đang diễn ra? Có ai giải thích cho anh tại sao cả hai chúng ta phải ở đây không?”
“Tình báo Malta có những tín hiệu trùng khớp. Hình như một báo cáo về việc theo dõi qua điện thoại đề cập đến nguy cơ khủng bố ở Pháp.”
“Chuyện cũ hâm nóng, vụ nghe điện thoại?”
“Việc theo dõi vẫn chưa cung cấp điều gì. Họ nghe được từ một cuộc trò chuyện của một người Somalia ở trại, hắn đã xưng tội với một cha xứ.”
“Và người nhập cư này đã bị ám sát vào hôm trước?”
“Đó là yếu tố kích hoạt.”
Điện thoại rung. Bruno bắt máy. Giọng đàn ông, khá căng thẳng: “Tôi đang ở sân bay, anh ở đâu, tôi không tìm thấy anh. Tôi tên Rifat Déméter, Đại biện. Ngài Đại sứ có việc ở Paris...” Bruno đặt tay lên điện thoại và xoay về phía người lái xe: “Đại biện gọi, anh biết ông ấy...”
“Nói với ông ấy là chúng ta sẽ gặp nhau vào cuối chiều, tại văn phòng ông ấy, sau các cuộc hẹn của chúng ta. Tôi đã quên báo với ông ấy tôi sẽ ghé đón anh.”
Bruno đã bắt đầu quen cuộc sống tại một khách sạn nằm trên cao của Valletta, gần Castille, dinh Thủ tướng. Sáng nay, anh đã ăn sáng tại sảnh phía trước khách sạn. Nhìn ra bờ thành và xa hơn nữa, về phía biển, phía hai bên đảo. Anh đổ dốc hướng về Đại sứ quán, đi theo những con hẻm. Ánh sáng tô hồng ngọt ngào lên trên mặt tiền.
Người dân phố cổ, nơi dường như không gì thay đổi kể từ ngày thành lập vào năm 1565, lo toan cho cuộc sống hằng ngày của họ. Giao hàng, chạy bộ, cà phê - thuốc lá - trò chuyện, trên mép vỉa hè, bên ngoài các quán bar. Các thương nhân mở cửa hàng, dựng những chiếc ghế nhựa trước cửa, những người khuân vác chạy về phía bến tàu kho cảng, phụ nữ quét rửa vỉa hè với vòi phun nước mạnh, trẻ con lại leo lên tầng trên cùng của ngôi nhà chứa giỏ đồ dự trữ được treo bằng một sợi dây chão, một người đàn ông lùa ngựa xuống dưới tầng hầm.
Bruno lại nhớ về những lúc Marie-Hélène nhiều lần liên tiếp từ chối làm tình, với nhiều lý do khác nhau. Anh nghe giọng điệu cô khi đẩy anh ra, dưới hơi nóng của tấm ga giường: “Bruno, hôm nay không được, em không biết mình đang bị gì...” Nếu có một kẻ ngu ngốc trên mặt đất, đó là mình, không thể nhìn thấy chuyện gì đang tới. Những giọt mồ hôi chảy trên trán anh.
Anh gặp các đặc vụ Malta. Những chuyên gia, thiếu phương tiện và nhân lực. Họ đã nói lại với anh về đoạn ghi âm này. Giữa một người Thổ Nhĩ Kỳ của Đại sứ quán và một doanh nhân người Libya, một tên Ali nào đó. Không nhiều thông tin. Có thể có khủng bố, được nhắc tới một cách lén lút. “Chúng tôi làm việc theo kiểu Ý, chúng tôi nghe nhiều cuộc điện thoại,” một trong số họ cười và nói.
“Tôi có thể chất vấn những người tị nạn Somalia không?”
“Chúng tôi sẽ sắp xếp cho anh chuyện này, bên ngoài trại, nhưng tôi không chắc chuyện này có ích gì.”
“Anh có suy nghĩ gì về việc cái xác biến mất không?”
“Tin tức về cái chết đã được lan truyền qua Internet, trên một trang web Somalia, họ đã tổ chức một cuộc quyên góp để nhanh chóng đưa xác về nước. Họ đã tự xoay xở để lấy lại cái xác và đưa nó đi. Những người chúng tôi hỏi cho rằng xác chết đã lập tức chuyển đi Cairo, qua đường Athens, bằng máy bay của hãng Turkish. Không thể kiểm chứng chính xác.”
Đại biện Rifat đã mời anh ăn tối tại một nhà hàng Ý nằm dưới Nhà hát Manoel. Bruno bảo ông kể lại tất cả các sự kiện đã xảy ra từ lúc thăm viếng đền Mnajdra.
“Ông quen tất cả người tham gia?”
“Không hoàn toàn. Nữ nhà báo muốn gặp ngài Đại sứ, chính tôi đã tiếp cô ấy. Cô sinh viên gặp vấn đề về giấy tờ bị thất lạc. Tôi đã gặp cô ấy ngày hôm trước ở văn phòng tôi. Levent, người Thổ Nhĩ Kỳ, lại khác. Anh ấy đã liên lạc với tôi hai tháng trước. Anh ấy tìm một ngôi nhà, một dinh thự nhỏ, để thuê hoặc mua dùng làm cơ ngơi cho ngài Đại sứ.”
“Những người này quen biết lẫn nhau?”
“Chắc chắn không?”
“Ông có thể giúp nhà ngoại giao người Thổ Nhĩ Kỳ không?”
“Cách đây vài ngày, tôi tự nói rằng mình nên làm việc trong lĩnh vực kinh doanh hơn là ngoại giao,” Rifat cười khúc khích. “Tôi đã nghe nói đến một ngôi nhà lớn tại Ta’Xbiex, gần nơi hoạt động kinh tế ngày trước của chúng tôi. Đó chính xác là những gì anh ấy đang cần.”
“Tôi rất muốn gặp người bạn Thổ Nhĩ Kỳ của ông.”
“Tối nay, ngài Đại sứ Hoa Kỳ có một buổi đón tiếp ở vườn Upper Barrakka, Levent sẽ ở đó, nơi đó gần khách sạn anh, cứ đến, tôi sẽ giới thiệu anh cho anh ta.”
Ba trăm người tụ họp dưới bầu trời đầy sao, trong cái nóng hầm hập và ẩm ướt. Các tiếp viên trong bộ đồ màu đỏ phát những chiếc mũ lưỡi trai của tàu sân bay Hoa Kỳ neo đậu ngoài biển. Ngài Đại sứ, một tín đồ giáo hữu theo chủ nghĩa tân tự do đi theo Obama, khen ngợi Mỹ và những vĩ nhân người Mỹ. Nhỏ con, tóc ngắn màu xám, mang dáng vẻ mục sư, ông phát biểu với một tông giọng phô trương cuồng nhiệt, như một diễn viên. Bên cạnh ông là nữ cố vấn vận chiếc đầm đỏ hở vai gây ấn tượng, Đô đốc của Hải quân Hoa Kỳ và Tùy viên quân sự, John Peter Sullivan. Bài diễn văn được phát qua màn hình lớn.
“Ông ta lúc nào cũng vậy sao?” Bruno hỏi Rifat.
“Đây là lần đầu tiên ông ấy có một buổi đón tiếp quan trọng như thế. Cả nước Malta đang theo dõi. Chính trị và thương mại.”
“Phải thừa nhận là ông ta đặc biệt.”
“Anh có muốn một ly whisky không? Tôi để đá vào cho anh nhé?” Rifat hỏi trong lúc đưa mắt liếc xung quanh.
“Kiểu pha trộn giữa Thanh giáo và cuồng loạn... Thỉnh thoảng, tôi tự nhủ rằng người Mỹ cũng giống những kẻ Hồi giáo cực đoan. Anh có nghĩ là ông ta ăn nằm với nhỏ cố vấn?” Bruno nói trong lúc khuấy những viên đá lạnh trong chiếc ly đầy tràn.
“Vâng, tôi nghĩ là có, nhưng thật ra tôi không biết gì về chuyện đó cả, đó không phải là chuyện của tôi,” Rifat thốt lên, đột nhiên bối rối khi đã trả lời một câu hỏi mà ông không nên biết câu trả lời.
“Rifat, thật ra tôi không muốn đưa anh vào tình huống khó xử. Mỗi người một cuộc sống riêng, phải không?”
“Tôi nhìn thấy Levent, theo tôi nào.”
Ông Đại sứ đã phát biểu xong. Đội kèn Marines bắt đầu những bản rock’n’roll cổ điển. Một người da đen mặc đồng phục xuất hiện hát giai điệu du dương theo tiếng kèn saxophone. Whole lotta shakin’ goin’ on . Rifat rẽ qua đám đông đang uống, trò chuyện và nhún nhảy. Levent bị vài cô gái Malta lịch thiệp vây quanh, đi kèm họ là ba người chị và chồng của họ. Một cô gái trẻ người Pháp đứng im lặng sau anh ấy. Rifat giới thiệu Bruno như một viên chức người Pháp quá cảnh.
“Có vẻ cuộc sống khá êm ả ở chỗ các cô phải không?” Anh hỏi ba người phụ nữ trẻ. Mái tóc nâu của họ thướt tha uốn lượn, cùng đôi mắt sáng. Làn da rám nắng nhẵn mịn phản chiếu một sức khỏe dẻo dai.
“Chúng tôi được sinh ra dành cho biển và lễ hội,” Violetta trả lời, tự giễu bản thân.
“Cuộc sống xinh đẹp, phụ nữ của chúng tôi thật tuyệt vời,” một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, tóc trắng, vận blazer yachtman và quần dài trắng nói chen vào. “Nhưng đối với những người Pháp như các ông, hòn đảo này hẳn không dễ sống.”
“Tại sao?” Rifat hỏi.
“Đất nước của chúng tôi thật sự nhỏ bé, mọi người đều biết nhau, điều này khiến việc ngoại tình gần như là không thể.”
“Đúng là rất khó để cắm sừng chồng, gần như là không thể. Chúng tôi bắt buộc phải ra nước ngoài, sẽ tốn kém hơn...” Người có vẻ là vợ ông ta trả lời.
Rifat cố làm những người bạn của ông quan tâm đến hạn ngạch đánh cá ngừ trong khi Levent nói chuyện kinh doanh. Trên bục diễn thuyết, những chiếc ghế màu trắng của các quan chức trống vắng. Dàn nhạc giao hưởng dạo quanh với những giai điệu nhạc rock revival ... Phần lớn khách mời bắt đầu chuếnh choáng. Qua ánh mắt và những lời nói vô thưởng vô phạt hé lộ những ý đồ ve vãn chỉ kéo dài trong buổi tối. Một làn gió nóng làm chiếc màn trắng kéo căng ở phía sau bục diễn thuyết phồng lên. Bruno hỏi Violetta về nghề nghiệp của cô:
“Tôi là luật sư ở Valletta, chuyên về luật đường biển. Không quá độc đáo, tất cả người Malta đều là luật sư.”
“Đáng sợ thật đấy. Tôi cũng rất ấn tượng về nơi này, có vẻ như... chúng tôi là những hành khách của một tàu bay chuẩn bị cất cánh.”
“Có lẽ bay về Cythera đúng không?”
“Chính xác,” anh đáp trả ngay với nụ cười mỉm, dù không hiểu cô luật sư này nói gì, anh nghĩ rằng mình bị ép nói về ngoại tình.
Bruno uống một hơi dài rượu whisky. Từ “ngoại tình” đã làm anh bị chấn động kinh khủng. Anh cố lấy lại bình tĩnh. Đừng quên Levent.
“Cô gốc Ý phải không? Mắt của cô, tóc của cô...”
Với Marie-Hélène, có hi vọng hòa giải không? Cô ấy nên quay lại. Và nếu cô trở lại... Cô lại đang mơn trớn tên môi giới thương mại, chuyện này sẽ không kéo dài, không thể, mình biết cô ấy... Làm sao để mở ra một cuộc điều tra bí mật trên đất nước nơi mọi người đều biết nhau. Mình cần phải khẩn trương. Ngay khi quay về, mình cần nhanh chóng đến Taurbeil-Tarte. Người phụ nữ Malta này thật lộng lẫy. Tiếc thay chồng cô không hề rời mắt khỏi cô. Có thể điều này đang làm cô ấy phấn khích.
“Một chút Ý, chắc chắn, cũng có thể là người Phoenicia, và chắc chắn là người Ả Rập cùng với một chút máu Do Thái.”
Bruno giật mình. Anh quên bẵng câu hỏi đã đặt cho Violetta. Chính chồng cô đã lên tiếng. Một người phụ nữ đã có tuổi, vận quần dài đen và áo trắng, mắt kính đen to bản, tiến gần đền nhóm của họ với nụ cười lớn.
“Đây là người phụ nữ nguy hiểm nhất ở Malta,” chồng của Violetta nói to trong lúc ôm chặt cô. Mary Delaunois viết mỗi tuần về cuộc sống ăn chơi của chúng tôi trong The Independant.
“Vừa tàn bạo vừa tài năng. Nhờ cô ấy, chúng tôi đều là người nổi tiếng,” Rifat nói trong lúc quàng tay lên cổ cô ấy, trong khi đó “bà tám” người Malta lấy ra một cái máy ảnh từ túi xách và đề nghị “những người đàn ông có mặt” và cô gái người Pháp đứng quanh ba chị em. Sau đó Bruno đề nghị Mary Delaunois đổi chỗ để chụp một bức ảnh cho cô và những người bạn mới. Anh đảm bảo Levent phải có mặt trong khung ảnh.
❖ ❖ ❖Trung học Saint-Aloysius, Birkirkara, Malta
Mọi người gọi ông ấy là cha Peter.
Cha Peter lập tức đồng ý gặp Bruno tại văn phòng Jesuit Refugee Service, một tổ chức quốc tế thành lập vào những năm 1980, lúc xảy ra thảm kịch tàu vượt biên trên biển Đông, ở trường trung học Saint-Aloysius của Birkirkara. Ngôi trường này nổi tiếng từ hàng trăm năm nay là nơi tạo ra những tinh hoa Malta. Những vị linh mục tốt bụng ban phát cho học sinh một nền giáo dục hoàn toàn theo đạo Cơ Đốc cũng như giúp học sinh làm quen với cuộc sống xã hội thấm đượm tinh thần Anh quốc , trong các tòa nhà rộng lớn bằng đá vôi bao quanh các khu thể thao nơi họ có dịp trút năng lượng dư thừa còn tồn đọng. Kể từ năm 2002, cha Peter đi đầu trong việc chăm sóc những người nhập cư châu Phi bị những cơn gió và dòng chảy ném lên bờ biển trên đảo. Cha mang sự hiện diện của Chúa đến tất cả khu trại nơi những người đắm tàu mòn mỏi chờ đợi, đôi khi trong hàng tháng trời để biết được số phận cuối cùng của mình. Và cha bảo vệ họ trước những người đồng hương đang tìm cách cho rằng thảm kịch này là một cuộc xâm lược mới.
Một phụ nữ người Pháp khoảng ba mươi tuổi, tình nguyện viên của tổ chức phi chính phủ, chờ Bruno tại sảnh của trường và im lặng dẫn anh qua một mê cung hành lang cho đến văn phòng chính của linh mục.
Cao hơn anh một cái đầu, rất ốm, gần như khổ hạnh, vừa khít trong chiếc áo sơ mi của linh mục cổ La Mã, thầy tu dòng Tên mời anh vào văn phòng, phía dưới là một bức ảnh trắng đen, được chụp ở Nhật Bản, của cha Arrupe, bậc thầy tâm linh của ông, người này đã tái cơ cấu hoạt động của dòng Tên khi ông nhận thấy dòng chỉ hướng đến những người có đặc ân trong xã hội.
Cha bề trên của dòng và cha Peter không giống nhau, nhưng có vài nét tương đồng giữa khuôn mặt họ. Cha Peter, như cha bề trên của ông, được xem như là binh lính của Chúa. Ông cười đón tiếp khách viếng thăm: một sự dịu dàng chớp nhoáng hiện lên trên gương mặt cú vọ của ông, được bao xung quanh bởi một bộ râu ngắn đã ngả bạc. Một ngọn lửa lóe sáng sâu trong đôi mắt ông, sau cặp kính mỏng. Ông sắp nói, nhưng đột nhiên kìm lại, như thể ông muốn xem xét Bruno trước, anh có cảm giác bị tia X-quang quét qua người.
“Thưa cha, tôi đến để nói chuyện với cha về cậu bé Somalia tội nghiệp. Tôi biết thời gian của cha có hạn và tôi...”
“Anh muốn tôi giúp gì?”
“Người này đã bị ám sát tại bệnh viện. Trên giường.”
“Anh đến từ Paris vì chuyện này sao?”
“Chúng tôi nhận được thông tin về sự tồn tại một mạng lưới thánh chiến ở Malta.”
“Tôi không thấy liên quan lắm.”
“Tôi cũng vậy. Trừ khi... Những người nhập cư này đến từ Libya. Có thể họ...”
“Anh đi lạc hướng rồi. Nhưng tôi sẽ giúp anh, trong khả năng hạn hẹp của tôi. Anh có danh thiếp không?”
Bruno đưa ông danh thiếp cùng số điện thoại di động. Cô gái người Pháp, người đã hỗ trợ cho cuộc nói chuyện không ngừng đưa ra cái bĩu môi chán ghét, chuẩn bị đưa anh ra nhưng cha Peter đã khoác tay Bruno và tiễn anh ra tận cửa. Ông dừng trước một bức tranh tường ngây ngô, do trẻ con vẽ, nói lên chuyến đi kinh hoàng của chúng. Người sống và người chết được vẽ bằng những gam màu gay gắt.
“Những đứa trẻ đã vẽ là những người sống sốt. Chúng đã chứng kiến cái chết của bố mẹ, ông bà, anh chị em. Thật kì lạ, vì chúng đã vẽ lại những hình thể giống như những gì người ta vẽ trên các bức tường của nhà thờ và nghĩa trang khi châu Âu bị tàn phá do chiến tranh, nạn đối và dịch hạch. Nhìn kĩ chi tiết này: người đàn ông mặc jean cùng cặp kính mát, đây là kẻ vận chuyển, còn người gầy trơ xương đang nhảy múa cùng chiếc mũ trên đầu, đó là bố của một trong những đứa trẻ.”
“Tôi có thể hình dung ra những hoàn cảnh mà mọi người đang đối mặt.”
“Tôi chứng kiến những người Công giáo Iraq, những người tị nạn Bosna, và hiện tại kể từ gần hai mươi năm nay, là châu Phi và Trung Đông nằm la liệt trên bờ biển của chúng tôi. Tôi nghĩ anh đã nhầm lẫn khi truy lùng mạng lưới thánh chiến ở những người nhập cư này, tôi chưa bao giờ nghe nói gì cả, chưa bao giờ, nhưng tôi có thể nhầm. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, có thể, ở đây thì không.”
“Thưa cha, cha đi thăm khu trại mỗi ngày, nếu cha có nghe dù chỉ là đồn thổi, xin cha hãy gọi cho tôi.”
“Tôi sẽ không quên.”
“Còn về vụ cậu bé bị ám sát...”
“Chính tôi đã phát hiện nó bị giết ở trên giường bệnh. Kẻ ác nhân chắc hẳn đã rời khỏi bệnh viện khi tôi đang đến.”
“Cha không thấy điều gì bất thường sao? Không có manh mối nào sao?”
“Không có gì cả.”
Sáng hôm sau, Lambertin gọi anh. Không lời mở đầu, ông hỏi: “Cậu đã đọc mail chưa?”
Bruno nhấc máy trong lúc tìm đồng hồ. Một tia nắng mặt trời chiếu qua cánh cửa gỗ. Lambertin muốn mình làm gì vào sáng sớm thế này?
“Mấy giờ rồi?”
“7 giờ! Tôi muốn nói chuyện với cậu, cậu tỉnh chưa? Không có cô gái Malta nào trên giường cậu đấy chứ? Vậy thì cậu nghe rõ đây. Về bức ảnh cậu đã chụp bằng chiếc iPhone trong bữa tiệc. Tôi đã cho xác định danh tính tất cả mọi người. Tôi vừa nhận tức thời kết quả từ phòng thí nghiệm. Nhìn chung không có gì bất thường, trừ một ngoại lệ!”
“Gã người Thổ Nhĩ Kỳ?”
“Levent Demir. Nhà ngoại giao. Con trai của người phụ trách mật vụ Thổ Nhĩ Kỳ. Đã từng được bổ nhiệm tại Rabat, Beyrouth, Paris. Không bao giờ làm công việc gì quá nổi. Các vị trí kỹ thuật. Nghỉ việc ở Bộ không chút khó khăn. Gia nhập văn phòng luật sư ở Istanbul. Tiếp tục nhận vài nhiệm vụ từ Bộ. Nhất là thương lượng mua bất động sản cho Thổ Nhĩ Kỳ mở rộng mạng lưới ngoại giao. Đây là lý do chính thức hắn ở Malta.”
“Còn không chính thức?”
“Chính cậu sẽ phải báo cho chúng tôi biết. Hắn vẫn luôn làm việc cho Viện công nghệ Massachusetts, với các đồng nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ của chúng ta. Và dường như hắn đã ngày càng có vị thế từ khi một số sĩ quan trong quân đội bị văng. Cậu còn nhớ cách đây hai năm, những người Thổ Nhĩ Kỳ đã bí mật gửi đến Bachar vài tên nổi loạn Syria (mà chính họ cũng đang ủng hộ) chống lại các tên người Kurd của Đảng công nhân Kurd PKK. Chơi nước đôi, như thường lệ. Trò chơi tàn khốc, vì tất cả tù nhân trao đổi đã bị hành hình, cả hai bên. Chính Levent Demir đã lo vụ này. Người ta có thể đoán rằng hắn ở Malta không chỉ để chọn giấy dán phòng ngủ của ông Đại sứ. Cậu tìm cách để có thêm thông tin.”
“Ngay khi tôi có tin mới, tôi gọi ông ngay.”
“Một chuyện nữa.”
“Vâng...”
“Trên bức ảnh của cậu, có một người phụ nữ trẻ tuổi.”
“Emma Saint-Côme. Một nữ sinh viên...”
“Levent Demir đã đưa cô ấy đến Istanbul vào cuối tuần trước. Cậu cần phải biết tại sao.”