❖ 15 ❖ Luha, phòng chờ danh dự của sân bay, Malta
Bruno đã gọi cho tôi từ Malta. Thật may. Có những lúc mà suy nghĩ quay trở lại Tripoli bắt đầu làm tôi thấy lo lắng, mặc dù tôi không thay đối quyết định của mình. Ngay khi tôi tránh nói nhiều với Rim về chuyện này, một cách vô tình con bé đã làm tôi vững tâm trong quyết định không luồn cúi trước những tên man rợ. Tôi chỉ không muốn sau này con bé trách tôi đã hèn nhát. Bruno phải ở lại Valletta ba ngày trước khi trở về Paris. Tôi đề nghị cậu ấy tạt qua Malta. Chúng tôi gặp nhau vào ngày hôm sau, trong một phòng chờ riêng ở sân bay dành cho cậu ấy, tôi cũng không phải ra khỏi vùng quốc tế. Hoàn toàn kín đáo. Cô tiếp viên dẫn tôi đến phòng chờ nơi cậu ấy đang đọc báo trong lúc chờ đợi. Tôi đã mất vài tích tắc để nhận ra cậu. Khuôn mặt không mấy thay đổi, nhưng ánh mắt đã khác đi. Cuộc sống thường vội vàng dập tắt ngọn lửa trong đôi mắt của những người không còn ở độ tuổi hai mươi nữa.
Chúng tôi bắt đầu bằng việc kể về cuộc sống riêng tư của nhau - cậu đã ly hôn, có hai con gái, chưa đi bước nữa, bố cậu vừa mất, công việc đáng lẽ đã khiến chúng tôi xa cách nhau, nhưng lại kéo chúng tôi lại gần nhau. Tôi đã kể cho cậu về cuộc gặp gỡ bất ngờ với con trai của một trong những người bạn cũ Thổ Nhĩ Kỳ. Nhiều lần, tuy tôi không chắc lắm, nhưng có vẻ cậu ấy không hứng thú với cuộc trò chuyện. Cặp mắt cậu hướng về đường băng nơi máy bay lướt bánh khi cất cánh. Tôi không thể đoán rằng cậu ấy đang suy nghĩ hay thật sự đang ở một nơi khác. Lúc tôi nói đến cuộc gặp gỡ cùng với chỉ huy Moussa, cậu ấy bèn đưa một cánh tay về phía tôi: “Người bạn Thổ Nhĩ Kỳ của thầy tên gì vậy?” Tôi trả lời: “Levent Demir.” Cậu giật mình, ánh mắt lóe sáng, và cậu sát lại gần.
Đến lượt cậu giải thích cho tôi là cậu đã ở Malta theo dấu tụi thánh chiến, có thể đang chuẩn bị một hoặc nhiều cuộc khủng bố tại Paris. Cậu vừa được biết cậu cần phải quan tâm tới một kẻ tên Levent Demir! Bruno đi ra khu miễn thuế để mua một chiếc điện thoại di động bằng tên cậu và đưa cho tôi. Tôi chỉ được sử dụng điện thoại này để liên lạc với cậu ta. Những gì cậu chờ đợi ở tôi: danh sách những đỗ khảo cổ cùng giấy chứng nhận, để cậu báo cho Interpol, và tất cả thông tin mà tôi có thể lượm lặt từ những lần gặp gỡ với chỉ huy Moussa và Levent.
Lúc chia tay cậu ấy để lên máy bay trở về (tôi muốn mình phải có mặt ở nhà trước khi Rim đi học về), tôi nhớ là đã nghe một cuộc trao đổi riêng bằng tiếng Ả Rập giữa Moussa và một trong những tay phó. Tôi không biết nói tiếng Ả Rập, nhưng tôi có thể hiểu được. Moussa biết điều này. Họ đã nói về việc xuất hiện của một nhóm nhỏ người Pháp, hình như là những người da đen, đến từ vùng ngoại ô Paris rồi qua Tunisia, và họ không biết phải làm gì. Khu rừng phía Nam nơi họ đã định gửi những người này đến đã quá tải. Họ tiếp tục nói chuyện nhỏ giọng, nhưng tôi đã nghe rất rõ Moussa kết luận: “Mày chỉ cần đưa những tên da đen này đến ‘trại Tunisia’, tại Sabratha!” Chính cái tên Sabratha, thành phố cũ do người Phoenicia thành lập và trở thành một trung tâm thương mại quan trọng của Roma, được biểu tượng hóa qua bức tranh khảm hình con voi tuyệt đẹp trong căn phòng họp ở Ostie, đã thu hút sự chú ý của tôi. Khi tôi chia tay Bruno, chúng tôi đã tìm thấy lại một chút đồng cảm ngắn ngủi kết nối chúng tôi lại với nhau vào năm cuối tôi giảng dạy tại trường Sorbonne. Cậu giải thích cho tôi rằng cậu phải ngồi tham dự buổi thẩm vấn cô gái người Somalia thoát khỏi vụ đắm tàu (anh trai của cô ta bị ám sát) của cục xuất nhập cảnh Malta, rồi cậu ấy đi và nói rằng cậu chờ những tin tức mới từ tôi.