← Quay lại trang sách

❖ 16 ❖ Tài liệu cảnh sát xuất nhập cảnh, Malta

Một cảnh sát người Pháp dự thẩm vấn, nhưng không có quyền đặt câu hỏi.

Biên bản

Tên: Habiba FADJI

Sở cảnh sát xuất nhập cảnh: 087_FKG

Số điện thoại: 214 73 260

(Vị thành niên không có người bảo hộ)

Ngày sinh: 16/4/99

Tuổi (sinh nhật gần nhất): 15

Nơi sinh: El Dar, Lower Shabelle, Somalia

Tình trạng hôn nhân: Độc thân

Dân tộc: Geledi (Dir-Mirfile)

Công việc gần nhất: giúp việc nhà (Tripoli)

Tuổi và gia cảnh của bố? “Bố cháu bốn mươi hai tuổi. Ông từng là công nhân nông nghiệp làm việc tại một nông trại bị một nhóm phiến quân tấn công. Cuộc chiến kéo dài, nông trại bị chiếm. Ông chủ và gia đình bị giết chết. Bố cháu và những nhân viên khác (khoảng mười người) bị bắt cóc và bị bắt làm tù nhân. Cháu không còn tin tức nào về ông ấy nữa.”

Tuổi và gia cảnh của mẹ? “Mẹ cháu bốn mươi tuổi, bốn đứa con và không làm việc. Ngày bị tấn công, chúng cháu đã trốn bên ngoài làng cùng mẹ và anh chị em cháu.”

Cháu có tin tức gì về mẹ không? “Lần cuối cùng cháu nhìn thấy mẹ cháu, bà bị thương và mất rất nhiều máu trên lề đường. Khi những tên lính rời khỏi làng cùng tù nhân của họ, mẹ cháu đã rời khỏi nơi trú ẩn của chúng cháu, hai đứa em gái nhỏ của cháu đã đi theo mẹ, mẹ tiến về phía các tên lính, van xin chúng tha cho chồng mình. Mẹ chìa những đứa em của cháu nằm trên tay (ba và hai tuổi) và cầu xin chúng nhân danh Lòng Chúa thương xót tha sống cho tất cả. Chúng đã trả lời bằng khẩu súng AK-47. Những đứa em của cháu bị xé thành từng mảnh và mẹ cháu đã ngã xuống. Bố cháu gào lên bên trong xe bán tải. Những tên lính đã đánh bố cháu bằng báng súng. Cháu cùng anh trai nấp cho đến khi màn đêm buông xuống. Các tên lính tụ tập ở nhà cháu. Chúng tổ chức tiệc. Chúng cháu nghe chúng hò reo và ca hát, thật khủng khiếp. Chúng uống rượu. Khoảng 3 giờ sáng, chúng rời đi. Chúng cháu đã quyết định trở về nhà, bị tàn phá, như tất cả những ngôi nhà khác trong khu phố. Cháu hy vọng sẽ tìm thấy ông bà cháu. Họ đi chợ khi cuộc tấn công bắt đầu. Chúng cháu chỉ tìm thấy xác bà cháu khỏa thân và đầy máu. Ông cháu đã bị cắt chân tay và bị chém nửa đầu. Đầu ông lủng lẳng dưới cổ. Cặp mắt trống rỗng nhìn cháu, như hét lên với cháu rằng hãy rời đi, rời đi, xa nhất có thể.”

Cháu đến Libya bằng cách nào? “Anh cháu đã nói rằng cần chạy về phía Bắc. Chúng cháu đã đi bộ và tránh xa con đường Mogadiscio. Ngay khi nghe thấy tiếng xe hơi, chúng cháu liền nấp. Ngày hôm đó, nhiều lần chúng cháu thấy những chiếc xe bán tải chứa đầy người Chehab. Theo cả hai hướng. Để đề phòng, chúng cháu quyết định chỉ đi bộ vào ban đêm, hơn nữa vào ban đêm, trời bớt nóng. Trong hai ngày, chúng cháu hầu như không ăn gì cả. Chúng cháu gặp một chiếc xe tải của Liên Hiệp Quốc, nhưng không ai thấy chúng cháu. Ngày thứ ba, chúng cháu ngủ dưới một cây keo, phía sau một hàng cây gai. Khi cháu thức dậy, cháu hét lên vì một người đàn ông đang nhìn chúng cháu. Cháu không biết hắn đã đứng đó trong bao lâu. Hắn khoảng chừng bốn mươi tuổi, xe bán tải của hắn đậu khá xa. Hắn hỏi chúng cháu định đi đâu. Anh cháu giải thích rằng chúng cháu đi về phía Bắc, để gặp một trong những người bác sở hữu một nông trại chăn nuôi ở Haud, một vùng của Somalia bạt ngàn đồng cỏ. Anh cháu đã nói chính xác là ông bác sống gần thành phố Imi. Hắn có vẻ tin chúng cháu và bảo rằng cũng đi cùng hướng. Hắn là một thương nhân, tự xưng là Sadiiq. Chúng cháu chạy xe cả ngày lẫn đêm. Anh cháu ngồi cạnh hắn, Sadiiq không nói gì với anh ấy cả. Còn cháu, cháu ngồi trên đĩa cân phía sau cùng hai con dê. Thỉnh thoảng chúng cháu chạy trên những con sông đã cạn để đi nhanh hơn. Cây cỏ bắt đầu thay đổi, con đường xuyên qua những ngọn núi. Hắn chạy trên con đường bằng sỏi cho đến một căn nhà nhỏ. Chúng cháu bước xuống, cháu thật sự muốn giãn chân, và cháu khát muốn chết. Sadiiq nói rằng căn nhà này thuộc sở hữu của hắn. Hắn ta đi vào nhà và nhanh chóng quay trở ra cùng một khẩu súng ngắn, kề vào má chúng cháu rồi nhốt chúng cháu dưới tầng hầm của ngôi nhà. Mỗi ngày, hắn mang cho chúng cháu trà và hai lát bánh mì. Có duy nhất một lần hắn mang một cái cặp lồng cùng cơm và một chút rau củ. Ngày hôm đó, hắn nói sẽ bán chúng cháu như nô lệ. Chúng cháu nghĩ hắn sẽ giao nộp chúng cháu cho bọn Chehab hoặc phiến quân Al-Qaïda nằm dưới ngọn núi, gần phía Bắc. Anh trai cháu, từ ngày đầu tiên đã bắt đầu cạo bức tường xung quanh ổ khóa. Cả ngày anh chỉ làm việc này, với một viên đá, và cháu thay chân khi anh không thể làm được nữa. Khi chúng cháu biết hắn muốn bán chúng cháu, chúng cháu tiếp tục cạo bức tường như điên. Một đêm nọ, chúng cháu trốn thoát thành công mà không đánh thức Sadiiq. Chúng cháu đi theo con đường qua rừng cây bụi, cho đến một vách đá lởm chởm, rất cao, và có vẻ không thể vượt qua được.

Cháu không biết chính xác đã đi bộ bao nhiêu ngày. Cháu tỉnh dậy vào buổi sáng và cháu cầu nguyện trước một khung cảnh kì vĩ, một tạo vật của Chúa. Lời kinh cầu nguyện buổi sáng và vẻ đẹp thiên nhiên tiếp cho cháu thêm sức mạnh. Chúng cháu tiếp tục băng qua những thung lũng khô cằn, tránh xa những ngôi nhà và đàn cừu của dân du mục. Chúng cháu vượt qua biên giới Ethiopia mà không hề bị phát hiện. Khi chúng cháu bị đội tuần tra Ethiopia bắt, họ bảo chúng cháu leo lên xe jeep của họ và tra hỏi. Chúng cháu rất yếu, cháu hầu như không còn sức để nói, chúng cháu kể họ nghe câu chuyện của mình. Khi họ hỏi chúng cháu định đi đâu, cả hai chúng cháu trả lời châu Âu. Đó là lần đầu tiên chúng cháu nói về châu Âu, nhưng đó là nơi duy nhất trên thế giới chúng cháu muốn đến. Cả hai viên cảnh sát đề nghị chúng cháu làm việc cho họ. Họ hứa cho chúng cháu tiền đi xe buýt đến biên giới Sudan nếu chúng cháu đồng ý. Chúng cháu bị tách ra. Anh trai cháu làm việc trên cánh đồng của một trong hai tên lính và canh giữ đàn cừu, còn cháu, cháu làm việc trong một ngôi nhà cho tên lính còn lại, gần một thành phố tên là Bolo Bay. Việc này kéo dài nhiều tháng. Khi cháu gặp anh trai, một lần một tuần, chúng cháu suy nghĩ tính bước đi tiếp theo. Chính anh trai cháu đã xin chủ cho chúng cháu mỗi tháng một chút tiền tương ứng với một phần trong chuyến đi bằng xe buýt của chúng cháu. Sau khi thảo luận một hồi lâu, họ đồng ý, đối với họ đó không là gì cả, chỉ là một hoặc hai đồng birr. Cháu làm việc cả ngày. Không một phút nghỉ ngơi. Nấu ăn, giặt giũ, dọn nhà. Cháu chẳng được đối xử tốt cũng như chẳng bị đối xử tệ. Cháu cần phải làm việc. Họ không phải là người đạo Hồi mà theo Cơ Đốc Chính Thống giáo. Cháu thà ở nhà họ còn hơn ở chỗ những tên Chehab. Một ngày nọ, anh trai cháu không đến chỗ hẹn. Chuyện gì đó đã xảy ra. Ông chủ chỉ đơn giản nói anh ấy đã bỏ trốn.

Buổi tối, lấy ra năm tờ tiền giấy mà cháu đã giấu, cháu cuộn chúng vào tóc và chạy trốn. Cháu trở lại Addis-Abeba, khá khó khăn. Trên đường, cháu gặp một người phụ nữ. Đó là một sơ đạo Thiên Chúa. Bà dẫn cháu về và chăm sóc cháu ở tu viện Anh em Thánh Jean. Cách đây hơn một tuần cháu còn ngủ trên đường và ăn những gì cháu tìm thấy trong bãi rác, không có gì nhiều. Cháu lưu lại vài ngày ở tu viện, để nghỉ ngơi và ăn uống, sau đó bà sơ đưa cháu một vé xe buýt đến Khartoum, một chút tiền và địa chỉ của một trong những người bạn Sudan của bà. Khi cháu leo lên xe, sơ ôm cháu và nói: “Dần dần, mọi chuyện sẽ ổn, Chúa che chở con Habiba.”

Tại Khartoum, cháu không tìm được người bạn mà bà đã nói. Cháu hoảng sợ, thành phố này thật sự lớn đến nỗi chẳng ai chú ý đến cháu. Một người bán hàng tạp hóa đã bắt gặp cháu trộm những trái chà là. Ông dọa sẽ báo cảnh sát. Cháu sợ run người và không thể ngừng khóc. Ông đề nghị cháu làm việc và cho cháu một chỗ tạm trú vào buổi tối trong cửa hàng của ông. Cháu ngủ trên đất, và cháu được ăn một lát bánh mì, một trái xoài và thỉnh thoảng một quả chanh. Cháu cũng phải làm theo những gì ông ta đòi hỏi, nhưng cháu giữ mình trong trắng. Một ngày nọ, cháu ở trước cửa hàng, và cháu nhận ra anh trai cháu. Ôi Chúa cao cả! Cháu còn giữ một ít tiền, chẳng là bao, một vài đồng bảng Sudan, cháu rời khỏi cửa hàng. Anh ấy dẫn cháu đến nơi sản xuất tranh khắc trong khu phố Al-Azhari. Anh kể cháu nghe về những gì anh đã trải qua, và đã gặp những người tị nạn Somalia, như chúng cháu, biết một tên “đưa đò” và tìm cách tổ chức một chuyến đi đến Libya. Anh trai cháu có một ít tiền vì đã làm việc trong chợ và cũng đã tham gia vào một vụ hôi của khi vụ bạo loạn tranh giành nước diễn ra, nhưng chưa đủ. Anh ấy giới thiệu cháu cho tay đưa đò, một thợ cắt tóc Somalia mà chúng cháu gọi là Johnny, ông tự gọi mình là chủ tiệm cắt tóc ở trung tâm thành phố Addis-Abeba, Johnny ngay lập tức bảo rằng ông sẽ giúp chúng cháu và đề nghị chúng cháu đi xe buýt đến Tripoli, với điều kiện là cháu đồng ý làm việc cho những người bạn của ông ấy khi chúng cháu đến.

Chuyến đi thật kinh khủng. Không phải xe buýt, mà là một chiếc xe tải mục nát. Chúng cháu khoảng năm mươi người, đàn ông, phụ nữ và trẻ con chất đống trên xe. Trời nóng kinh khủng, chúng cháu khát gần chết. Con đường thì dài, cháu nghĩ là đã đi qua Ai Cập hai hoặc ba lần. Chúng cháu đi ngoằn ngoèo trên các con đường giữa hai quốc gia. Vào chiều muộn, chiếc xe tải dừng lại và hành khách, phần lớn là những người Somalia như cháu, nhưng cũng có những người Eritria và hai người Sudan, phải xuống xe và tiếp tục đi bộ. Có vẻ chúng cháu có nguy cơ chạm trán với đội tuần tra. Buổi tối, chúng cháu ngủ trong một trại dã chiến. Một người đàn ông làm việc cho Johnny vừa gặp anh trai cháu để đòi trả thêm tiền khi ông nói rằng có vấn đề ở biên giới. Anh trai cháu đã nộp 650 đô ở Khartoum, chỉ còn lại 150 đô. Anh buộc phải đưa một nửa.

Cuối cùng, chúng cháu đi bộ qua biên giới. Chuyện này mất gần ba tiếng, trời tối đen. Vào buổi sáng, một xe tải Libya đến tìm chúng cháu. Cháu gặp vấn đề khi đến lượt cháu leo lên. Tên Libya nói rằng cháu chưa trả tiền vé. Hắn thảo luận rất lâu với anh trai cháu phía sau xe tải, may mắn thay, anh ấy gọi được Johnny bằng điện thoại di động. Johnny ở trong cửa hàng, ông đã ra lệnh và cháu có thể leo lên. Tên Libya nói với cháu là đến Tripoli, cháu phải vâng lời ông. Cháu hứa sẽ làm người hầu của ông ta. Xe tải bị hư, xung quanh là sa mạc, gần chiếc xe buýt cũ bị bỏ hoang nơi chúng cháu có thể thấy những cái xác trơ trọi của những người anh em chúng cháu đã bị bỏ rơi. Cháu không muốn tỏ ra sợ hãi, nhưng trong lòng, cháu đã khóc. Cháu chắc chắn là chúng cháu sẽ chết ngay tại chiếc tải này, như những người khác. Anh cháu không rời khỏi cháu. Không có anh, cháu sẽ chết, vào ngày hôm đó. Đầu cháu nổ tung, cháu đau bụng, cháu run lập cập vì sốt và cháu khát. Anh cháu đã làm việc như thợ máy trong gara ở Somalia và anh có thể giúp tài xế sửa xe. Mọi người hò reo khi nghe thấy tiếng động cơ nổ trở lại sau một hồi rít dài. Cháu cũng thế, như những người khác, cháu reo hò và khóc.

Cuối cùng, chúng cháu đến Koufra nhưng không thể vào thành phố vì cuộc chiến giữa hai bộ tộc (người Toubous và người Zouwayas) đã nổ ra ở trung tâm khu phố. Những ngôi nhà bị đốt cháy, có rất nhiều người bị thương và bị giết chết. Một bộ phận dân chúng tụ tập bên ngoài thành phố và chúng cháu bị chặn cùng với một đoàn xe đến từ Ai Cập. Nhiều xe tải to. Những chỉ huy đoàn xe đã tự sắp xếp. Họ chốt lính gác trang bị vũ khí, ngày và đêm, xung quanh đoàn xe của họ. Chúng cháu ngồi dưới những tán dừa. Một hôm nọ, cháu thấy anh cháu bàn bạc với một trong những tay buôn, anh đã bảo cháu rằng đó là người Ai Cập, nhưng cháu nghĩ đó là người Qatar. Buổi tối, anh nói với cháu phải cắt tóc và mặc đồ như đàn ông. Những tên Ai Cập cần hai người đàn ông để nấu ăn cho họ. Cháu cắt mớ tóc xoăn và anh cháu mua những bộ đồ dành cho đàn ông. Cả hai chúng cháu làm việc như đầu bếp trong mười lăm ngày, cho đến khi con đường được mở lại. Anh cháu đã thương lượng với các tay buôn để họ đưa chúng cháu đến Tripoli. Họ đồng ý. Trong chuyến đi, chúng cháu biết được chúng vận chuyển thiết bị quân sự đến một thủ lĩnh Hồi giáo Tripoli. Ngay khi xuống khỏi xe tải, anh cháu đã gọi số điện thoại mà tên thợ cắt tóc Johnny đã đưa. Ai đó đã đến tìm chúng cháu, rồi đưa chúng cháu đến một trang trại không quá xa sân bay, nơi có khoảng trăm người Somalia. Ông chủ hét lên khi thấy cháu. Người ta đã hứa với ông ấy sẽ là một người phụ nữ, ấy mà trước mặt ông ta là một thằng nhóc kiệt quệ. Anh cháu kể lại những gì đã xảy ra. Ông tiến lại gần cháu và yêu cầu xem ngực cháu, sau đó ông cười phá lên. Ba ngày sau, cháu bắt đầu nấu ăn ở nhà chỉ huy Moussa, trong lúc chờ tóc cháu mọc lại và chờ ông ấy chán hai đứa con gái đang được sủng ái vào thời điểm đó. Chúng cháu đã trải qua ba tháng ở nhà chỉ huy Moussa, chúng cháu bỏ trốn khi tên đưa đò gọi anh cháu và nói là họ sẽ khởi hành vào đêm hôm sau. Chúng cháu đã trả 2.000 đô-la cho chuyến vượt biển. Hai nghìn mỗi người. Anh cháu trả tất cả, cháu không biết anh đã kiếm số tiền như thế nào.”