← Quay lại trang sách

❖ 2 ❖ Sabratha, Libya

Trực thăng cất cánh tạo nên một cơn lốc cát. Tiếng ồn của động cơ quay đã làm ngưng lại mọi trò chuyện bên trong khoang máy bay. Tôi nhìn mặt đất bên dưới. Tôi đã tới chỗ hẹn hơi sớm, vào thời điểm Moussa rời Đại sứ quán Mỹ vì có việc ra ngoài bất chợt. Khi nhìn thấy tôi, tôi đoán rằng hắn ta do dự và rồi ra hiệu cho tôi vào bên trong xe. Vài phút sau đó, tôi đã bay dọc bờ biển khoảng bốn mươi phút. Chiếc trực thăng quân sự Mil Mi-14 xuất xứ Liên Xô hầu như chưa từng được sử dụng. Gaddafi đã mua chừng năm mươi chiếc loại này, nhưng ông không có thời gian để đào tạo phi công.

Chiếc trực thăng, được bảo quản nhờ vào không khí khô cằn của sa mạc, đã không được sử dụng từ khi nơi đây trở thành khu vực cấm bay , vào lúc chiến tranh bắt đầu. Nó được chỉ huy Moussa nhặt về trong một căn cứ không quân bị quân đội bỏ hoang. Moussa bắt đầu chuẩn bị cho các cuộc không kích phương Tây. Những thợ cơ khí cũ của quân đội Nga là những người Chechnya đã gia nhập Thánh chiến, đã tân trang chiếc trực thăng, tái vũ trang nó và tiến hành những khâu kiểm tra cần thiết. Một phi công Ai Cập cầm lái. Tôi là hành khách của một chuyến bay thử nghiệm, mà vì cẩn thận, sẽ còn lâu mới có chuyến sau. Phi công đã thực hiện một vài thao tác chuyên môn. Chiếc trực thăng bay rất gần mặt đất, trong thế tấn công, dọc theo bờ biển hướng về Sabratha.

Liệu đây có phải là niềm vinh dự khi chúng tôi đã bay hai lần trên thành phố này, trong trạng thái tĩnh ở độ cao tương ứng với nhà hát cổ đại?

Biển cả... với sự hùng vĩ đầy mê hoặc. Những tàn tích hiu quạnh... im ắng... bị “đóng băng” dưới ánh mặt trời... những thành phố đã biến mất....

Lịch Sử chỉ mới bắt đầu.

Những chiếc máy bay của ngày 11 tháng Chín, trận Trân Châu Cảng của Thánh chiến Hồi giáo, thổi tung tòa Tháp Đôi, trong biển lửa và khói bụi, đã ghi vào lịch sử cái chết biểu tượng của New York. Chiến tranh Iraq đã làm sáng tỏ sự cuồng tín dân chủ của một đất nước từng thọc kiếm vào da thịt của người Iraq, giữa hai con sông Tigris và Euphrates. Từ đó sự hỗn mang càng lan rộng. Thành phố khắp nơi chìm trong biến lửa.

Ngoài bộ quân phục quen thuộc, Moussa còn đeo chiếc kính bảo hộ nhựa làm nổi bật đôi mắt. Hắn ra lệnh cho phi công bắn vào một cột trụ của ngôi đền Liber Pater, Dionysos, và một trong những vị thần bảo hộ gia đình của đồng đội tôi, Septimius Severus. Trụ nổ tung và sụp đổ. Tôi không thể không nghĩ về ngày những tên chiến binh này không phải trên một chiếc trực thăng cũ được tân trang lại, mà trên những chiếc máy bay đến “trêu chọc” những thành phố của chúng tôi với những quả bom được dẫn đường bằng tia laser.

Tôi dành cả đời cho việc nghiên cứu về các nền văn minh đã từng thịnh vượng và đã biến mất. Tôi cảm thấy hơn bao giờ hết nên tự đặt cho mình những câu hỏi về tương lai của nhân loại sau khi đọc xong một bài báo khá hay của một nhà văn Pháp trên báo Le Monde trong đó tác giả tự đặt câu hỏi suy cho cùng liệu Hồi giáo sẽ phục hưng một châu Âu trầm uất, giống như cách mà Thiên Chúa giáo đã từng làm màu mỡ vào thời trước?

“Grimaud! Nhìn kìa... Đằng đó, trên bãi biển, người Pháp, đúng rồi đằng đó, nhóm người nô lệ da đen đó, người Pháp, giống chú đó...”

Đó là lần đầu tiên chỉ huy Moussa xưng hô thân mật như vậy. Hắn ta buộc phải thét to do tiếng ồn. Những người đang tập bắn trên bờ biển. Moussa giải thích với tôi rằng bãi biển đã từng là một trong các “địa điểm luyện tập” của quân đoàn Tunisia.

“Tôi bắt họ phải thay đổi địa điểm tập hai lần mỗi ngày! An toàn là trên hết...” Hắn ra lệnh cho phi công nhắm vào họ. Những tên lính chiến binh học việc chạy loạn xạ về cồn cát. Phi công nhắm vào một trong số họ và đuổi theo. Chúng tôi bay cách mặt đất khoảng năm mét, luồng gió từ cỗ máy nặng nề làm tên này cúi gập người xuống.

Moussa yêu cầu phi công đưa đến văn phòng làm việc của mình, gần hồ bơi, như cách Đại sứ Mỹ đã từng làm. Cuộc họp của chúng tôi rất ngắn gọn. Hắn thúc giục tôi đẩy nhanh tiến độ công việc vì Levent nói rằng đã tìm được cho hắn “hai chi nhánh” để xuất khẩu những cổ vật. “Một ở Istanbul và nơi còn lại ở London. Các khách hàng đã xếp hàng chờ được phục vụ.”

Tôi mong quay về nhà để gọi Bruno và làm bản tường trình chi tiết cho cậu ta (về chiếc trực thăng, bọn người Pháp ở doanh trại của người Tunisia), tôi mất rất nhiều thời gian để lấy chiếc xe của mình ở vị trí quen thuộc tại đồn biên phòng Ras Jedir. Quân đội Tunisia, rất căng thẳng, đã cho quân tiếp viện hải quan và tăng cường gấp đôi mọi kiểm soát. Cảnh sát đã nói với tôi rằng một tên khủng bố đã tấn công hai mươi khách du lịch Anh trên bãi biển vào hôm qua. Cuộc sống màu hồng đã chấm dứt.

Khi tôi về đến nhà thì trời đã sáng. Tôi gặp những người câu cá từ biển trở về. Tôi đi nhanh, tôi nghĩ rằng Rim vẫn còn đang ngủ. Tôi sẽ chuẩn bị bữa sáng cho cô bé. Một tách trà nóng, cùng hai quả trứng ốp la. Nhưng chưa kịp đặt chân lên thềm cửa, tôi đã lùi lại. Một con chuột cống rất to không đầu bị đóng đinh trên bức tường trắng, giữa hai bức điêu khắc Carthage cổ đại. Cái đầu nằm trên tấm gạch lát, trong một vũng bầy nhầy nhuộm máu. Ai đó đã đè bẹp nó bằng gót chân. Một dòng chữ đỏ trên tường: “ĐỒ CHUỘT CỐNG PHÁP CÚT XÉO!”