← Quay lại trang sách

❖ 3 ❖ Valletta, Malta

Từ khi đến Malta, Bruno cảm thấy tội lỗi vì đã bỏ mặc Harry ở Taurbeil. Nguyễn gọi cho cậu rất nhiều lần để thông báo rằng đã bắt gặp thằng nhóc từ xa. Anh trấn an đồng nghiệp của mình. “Thằng bé không quá yếu đuối như ta nghĩ...”

“Anh đùa à, vậy còn ý muốn tự tử của nó?”

“Thì đó, nó đã không còn nghĩ đến nữa.”

Ngoài chuyện đó ra, không một chút manh mối nào. Anh đã gặp lại những đồng nghiệp Malta, thẩm vấn những người Somalia trong một quán net gần hai khu trại tị nạn, anh đã mời Emma Saint-Côme đến dùng bữa trưa sau khi tình cờ gặp cô trên đường Republic Street. Những người Malta nhắc lại với anh những gì họ đã từng nói trước đó trong buổi hẹn đầu tiên, người Somalia đang dè chừng. Còn với Emma...

Cô khoác trên mình vẻ ngoài một nữ sinh viên “sung sướng” đã tìm được một công việc thực tập “yêu thích”, Bruno buộc phải hỏi cô một câu hỏi mà anh rất nóng lòng muốn biết khi cô đang ăn bánh cannoli : “Cô có thể cho tôi biết cô đã làm gì khi ở Istanbul cùng với Levent không?” Cô nàng đã phải dành chút thời gian để nuốt chiếc bánh đang dang dở trước khi trả lời: “Tôi không biết rằng anh là một tên cớm chống tệ nạn xã hội đấy.”

Cô nhìn anh bằng một cái nhìn ranh mãnh. Một tiếng sau, vẫn ở chiếc bàn đó, sau khi uống vài ly espresso, họ là những vị khách cuối cùng của quán và cô đã kể xong câu chuyện của mình.

Cô hành nghề mại dâm từ lúc mười sáu tuổi (cô là nữ sinh trung học ở Rennes lúc bắt đầu hành nghề), bố mẹ cô chưa bao giờ đoán ra được điều đó, và cô cũng không bao giờ, “tôi nói rõ không bao giờ” cảm thấy hối hận. “Tôi không thể chịu được cảnh sống mà không có tiền.”

“Vậy em có tình cảm với những kẻ đã lên giường với mình không?”

“Giờ chúng ta xưng hô anh em cơ à? Tốt thôi. Không, không bao giờ; em mơn trớn họ, em thỏa mãn dục vọng của họ bằng tay, miệng, ngực, âm đạo và cả mông nữa, chỉ vậy thôi, và rồi khi họ ra về, tiền trao cháo múc... Ai cũng ăn nằm qua đường với nhau. Còn em thì không. Em chọn khách hàng cho riêng mình. Em đã bắt đầu bằng công việc giúp việc nhà để đảm bảo sự độc lập về tài chính. Vào một ngày, em buông chiếc máy hút bụi. Điều đó không có gì đáng buồn cả, em có một cuộc sống thầm kín, như thể em đang sống trong sự vụng trộm. Nhưng tại sao em lại kể cho anh nghe mọi thứ chứ?”

“Bởi vì anh là cảnh sát và anh đang thẩm vấn em.”

“Em không biết hiện nay các anh đang có chuyện gì. Vừa hôm qua, ông Đại biện cũng hỏi em những câu hỏi này.”

“Em đã nói gì với ông ta?”

“Không gì cả.”

Mặc cho cái nóng oi bức, hai cánh tay trần và đôi gò má của cô trông như một viên đá cẩm thạch tươi mát. Những lời mà cô nói dường như không có liên quan đến cuộc sống riêng tư và cũng không có tí quan trọng nào đối với cô. Cô không nói gì về Levent, nếu không phải vì anh ta đang yêu. Cô sẽ tăng giá.

Từ Valletta, anh tiếp tục hack iPhone của người vợ cũ. Anh không dùng thiết bị chuyên nghiệp, mà chỉ dùng một bộ giám sát dành cho di động. Thiết bị rất đáng tin cậy, được bày bán tự do. Anh ý thức được hành động tồi tệ của mình, nhưng anh cần phải bắt mạch cô ấy từ xa. Cần biết chuyện của cô ấy đang tiến triển thế nào. Đọc lén thư của Marie-Hélène là cầu nối duy nhất giữ anh với cô.

Vài tuần gần đây, anh nhận ra sự thay đổi của giọng điệu trao đổi giữa hai người. Ít mùi mẫn hơn, tầm thường hơn. Một cuộc sống hằng ngày tầm thường.

Sáng nay, cô đã hỏi ý kiến tên ấy về cô con gái lớn của họ, Alice, có vẻ như con bé muốn rửa tội.

Cô ấy hỏi tên khốn này mà không nói chuyện đó với tôi.

Những đứa con gái đang thoát khỏi vòng tay tôi, trở thành người dưng. Bước vào độ tuổi mà tính cách cá nhân bộc lộ, chuyển biến, chúng đang dần quên tôi. Tôi không còn biết gì về chúng. Tôi cảm thấy mình thân thiết với Harry hơn là với các con gái. Tôi muốn giúp chúng học bài, làm bài tập về nhà, dẫn chúng đi học piano hay đến phòng gym, như trước đây. Nhưng tôi không thể nói với chúng một lời. Nhưng sao lại có chuyện rửa tội? Alice sẽ sớm bước vào tuổi mười ba. Cả Marie-Hélène và tôi đều không còn mối liên hệ gì với tôn giáo từ lâu rồi. Emma bao nhiêu tuổi khi cô bắt đầu hành nghề mại dâm? Mười sáu tuổi. Alice sẽ làm gì trong ba năm tới?

Một cuộc gọi làm gián đoạn luồng suy nghĩ của anh. “Cha Peter đây, tôi có thể gặp anh không? Gấp...”

“Khi chuẩn bị Thánh lễ sáng nay, tôi chợt nhớ ra một chi tiết mà tôi đã không nghĩ đến.”

“Xin Cha nói tiếp.”

“Có thể không quan trọng, nhưng... Là như thế này, ngày tôi phát hiện người chết ở bệnh viện Mater Dei, khi đến nơi, tôi thấy một kẻ đang chạy, leo lên xe của hắn và lao đi mất...”

“Cha có ghi lại biển số không...”

“Đó là một chiếc Range Rover đời cũ, màu nâu, cà tàng. Và biển số là MAT 2 11.”

“Với một người không nhớ gì cả...”

“Sáng nay, tôi đã tìm một tài liệu về Phúc Âm của thánh Matthieu, câu chuyện về các tu sĩ, những người đến ngôi nhà nơi mẹ Maria vừa hạ sinh, và dâng cho bà nén hương, mộc dược và vàng. Với chúng tôi, câu chuyện này nằm trong Phúc Âm của thánh Matthieu, chương 2 câu 11. Và tôi đã nhớ đến chiếc xe này...”

Nửa giờ sau đó, vị tu sĩ và viên cảnh sát tiến vào trong khuôn viên của Bộ Nội vụ, gặp mặt cảnh sát trưởng của quốc đảo, một gã khổng lồ cao gần hai mét, cực kì nổi tiếng vì kích thước to lớn (gã không thể ngồi vừa bất kỳ chiếc xe cảnh sát nào mà gã điều khiển) và vì sự nhút nhát giả tạo của gã. Chỉ sau một cú điện thoại, vị cảnh sát trưởng đã đưa cho người đồng nghiệp Pháp danh tính và địa chỉ của chủ nhân chiếc Range Rover, Louis Camillieri, một ngư dân đến từ vùng Marsaxlokk, sống trong một căn nhà biệt lập gần bờ biển.

Cha Peter khi lái xe trông rất căng thẳng, khác với vẻ điềm tĩnh của một tu sĩ. Ông chạy trên con đường vắng vẻ dọc theo các nhà kho của một căn cứ cũ của Anh được trưng dụng thành các nhà chứa nông phẩm. Bất thình lình, con đường lao xuống bờ biển và đổ dốc xuống đoạn cua chữ chi băng ngang đồi. Bruno bị chói lòa bởi ánh sáng dội ngược từ mặt biển mênh mông.

Trong lúc giảm tốc độ khi thấy một chiếc xe khác từ hướng ngược lại, vị cha xứ nói: “Trước mặt chúng ta là Libya, Tunisia và ngoài xa kia là sa mạc Sahara.”

“Cha có thấy tài xế của chiếc xe mà ta vừa chạm mặt không?” Bruno cất tiếng.

“Tôi bị lóa mắt và phải nhìn đường mà.”

“Con nghĩ mình đã trông thấy viên Đại biện người Pháp.”

Nhà của tên ngư dân núp bên trong một mỏ đá bỏ hoang dưới chân của phần đất nhô ra biển. Con đường mòn bằng đá (ít nhất hai cây số) dẫn đến một cái cổng mở toang.

Bruno nói: “Con đã hiểu sao hắn chạy chiếc Range Rover. Nhà hắn là nơi tận cùng thế giới.”

Cha Peter không tìm thấy bóng râm để đỗ xe. Họ tiếp tục bước đi giữa dãy hàng rào xương rồng. Cha xứ, trong trang phục giáo sĩ, bước đi điềm tĩnh dưới cái nắng như đổ lửa của mặt trời. Bầu trời và mặt đất trắng xóa vì nắng. Đó là một buổi trưa, không một luồng gió. Những con chó tiến về phía họ, không sủa do quá mệt vì cái nóng.

Ngôi nhà được xây dựng với một sân vườn, như bao ngôi nhà khác của người Malta. Với kích thước khiêm tốn, nó nằm gọn dưới một vách đá và được những dãy đất khô cằn bao quanh. Dãy tường bằng đá phân định từng khu. Chỉ những tán lá bạc của cây ô liu làm phá vỡ vẻ tinh khiết của khung cảnh. Bruno thốt lên: “Đây đúng là sa mạc!”

“Hiển nhiên là sa mạc vào mùa hè, nhưng xuân sang, tất cả ruộng bậc thang này sẽ được canh tác.”

Phía sau căn nhà, một người phụ nữ đang nằm sấp bên bể bơi. Hoàn toàn trần trụi, cô ấy chỉ mang một cặp kính râm. Một hình xăm chữ thập nhỏ trên mông phải. Cha xứ đặt tay lên cánh tay của Bruno, ông dừng lại ở một khoảng cách hợp lý và ho để báo hiệu sự hiện diện của họ. Người phụ nữ đứng dậy, quàng chiếc khăn tắm lại:

“Xin lỗi, tôi không nghe tiếng Cha tới. Cha tìm ai vậy thưa Cha?”

“Chúng tôi xin lỗi vì đã làm phiền cô, nhưng chúng tôi muốn nói chuyện với Louis Camillieri.”

“Anh ấy đã rời đi bằng thuyền vào tối hôm trước và sẽ trở về sớm thôi. Tôi đang đợi anh ấy, xin mời vào nhà, sẽ dễ chịu hơn nếu chúng ta trò chuyện dưới bóng râm.”

Cô đón tiếp họ trong một căn phòng lớn được trang bị máy điều hòa, sau đó biến vào trong để thay váy. “Cô ta biết tên Camillieri này sao?” Bruno hỏi trong khi liếc mắt nhìn toàn cảnh căn phòng. Nội thất tối giản, hiện đại, cảm hứng từ Ý. Trên tường, những mảng màu họa tiết kilim kỳ lạ. Bên kia bức tường bằng kính, là biển.

Vị cha xứ cất tiếng: “Anh biết đó, ở Malta, mọi người biết nhau không nhiều thì ít. Có thể anh ta từng là học sinh của tôi khi tôi còn dạy ở trường Công giáo Saint Aloysius.”

“Còn cô gái này?”

Vị cha xứ ngước mắt lên trời.

“Chưa từng gặp, chưa từng nghe nói đến bao giờ.”

“Cha có thấy...”

“Tôi đoán là mọi người đang rất khát...”

Trở lại với một bình nước chanh và ba chiếc ly, cô nói với một chất giọng Đức nhẹ. Cô mặc một chiếc đầm vàng, ngắn vừa phải, để lộ vai, làm nổi bật làn da rám nắng và đôi chân dài bất tận. Bruno lấm tấm đầy mồ hôi trên chiếc ghế tựa, mệt mỏi vì cái nóng và bị cô nàng tóc vàng làm bối rối. Trên hòn đảo này, đối với những người phụ nữ, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng vợ của một ngư dân sẽ như vậy, tôi vẫn luôn nghĩ họ là những người phụ nữ trong trang phục đen ở đảo Sein. Cậu thở dài trong vô thức trước khi tự giới thiệu và thốt lên với giọng điệu vỡ mộng: “Chúng tôi đang tìm kiếm thông tin về một người nhập cư vô danh đã chết ở bệnh viện vào tuần trước.”

“Những con người đáng thương, thật sự kinh khủng. Louis đôi khi có kể cho tôi về những gì anh ấy thấy trên biển. Tất nhiên, chúng ta không thể giúp tất cả bọn họ, phải không thưa Cha? Nhưng có liên quan gì đến chồng tôi?”

“Có vẻ như anh ta đã đến Mater Dei, anh ta có thể cung cấp thông tin cho chúng tôi.”

“Tôi biết rằng bà dì lớn tuổi của anh ấy nhập viện. Thông thường, anh ấy vào thăm bà mỗi tuần...”

“Chồng cô có đi đánh cá mỗi ngày?”

“Thường xuyên nhất có thể, đó là một niềm đam mê cũng như một công việc, chúng tôi cũng có một công ty tái chế kim loại, ở Blagnac, ngoại ô Toulouse. Rất nhiều việc, và phải đi tới đi lui rất nhiều. Dù muốn, tôi cũng không gặp anh ấy thường xuyên.”

Bruno và Cha Peter chào tạm biệt nữ gia chủ và để lại số điện thoại.

“Xin thứ lỗi, tôi quên tự giới thiệu, tôi tên là Mercedes, tôi biết, với giọng tôi, điều này có vẻ buồn cười.”

“Cô sinh tại Malta sao?”

“Bố tôi làm việc cho hãng hàng không Lufthansa. Ông ấy trở về Foret-Noire sau khi nghỉ hưu, nhưng bà tôi đã sống trên hòn đảo này, sau chiến tranh.”

“Một câu hỏi nữa. Có ai đã đến gặp cô trước chúng tôi không?”

“Không. Không ai cả. Và cũng may, tôi đã rất bối rối khi các anh trông thấy tôi khỏa thân, phải vậy không thưa Cha? Thôi chết, tôi đã không mời mọi người vài món ăn vặt. Có thể Cha với anh thích những quả ô liu nhỏ hơn, cây nhà lá vườn, người Pháp rất thích những trái ô liu nhỏ...”

Vào một buổi tối, Mercedes gọi cho Cha Peter. Cô khóc. Không phải chuyện khỏa thân hay những quả ô liu nhỏ. Con tàu của chồng cô được tìm thấy trôi dạt vào những tảng đá ở Filfla. Không ai trên tàu. Sáng hôm sau, cảnh sát đã cung cấp cho Bruno thông tin mà cậu đã yêu cầu. Louis Camillieri, năm mươi hai tuối, ngư dân chuyên nghiệp. Có thời gian bị tình nghi về buôn lậu cá ngừ (cảnh sát đã từ bỏ điều tra sau cuộc bầu cử). Doanh nhân thời vụ, đa nghề, như nhiều người Malta, từng đại diện cho một thương hiệu thiết kế của Milan trong hai năm, sau đó đã đầu tư số tiền kiếm được từ vụ buôn phế liệu và xe hơi tại Pháp. Hắn sống cùng Mercedes Baumann, ba mươi mốt tuổi, quốc tịch Đức, cựu người mẫu, hiện tại đang vô công rồi nghề.