❖ 6 ❖ Khách sạn Dorchester, Mayfair, London
Levent đã gửi cho tôi một vé khứ hồi Tunis-London và đặt phòng cho hai ngày tại một khách sạn boutique ở South Kensington. Một người trong đường dây của cậu ấy yêu cầu sự đảm bảo và muốn kiểm chứng thực trạng cam kết của tôi. Trời đổ mưa lớn khi tôi đến sân bay Heathrow, nhưng sau đó bầu trời quang đãng và bắt đầu nóng lên như ở Tunis. Tôi đã không trở lại London từ hơn hai mươi năm trước, khi tham dự một hội thảo ở trường Christ Church thuộc Đại học Oxford. Bên trong nhưng quán cà phê và cửa hiệu của phố Old Brompton, rất nhiều phục vụ và khách hàng là người Pháp. Tôi có một cảm giác khó tả khi nghe tiếng mẹ đẻ của mình mọi lúc mọi nơi, nhất là mới hôm qua, tôi nghe trên đài RHI rằng những người tị nạn Syria và Iraq từ chối đến Pháp.
Người liên lạc của Levent gọi điện khi tôi rời khỏi bảo tàng Victoria và Albert. Tôi đã hẹn gặp anh tại khu sảnh của khách sạn Dorchester, vào giờ trà chiều. Sảnh ngập tràn những gia đình Ấn Độ, Nga và Ả Rập Xê-Út. Một cặp vợ chồng Pháp đang dùng rượu sâm panh với đứa cháu. Tôi mất khá lâu để xác định đối tượng của mình vì tôi nghĩ anh ta hẳn phải lớn tuổi, kiểu người không thể giao thiệp, và tôi đã sững sờ khi nhìn thấy một người đàn ông Pháp dưới bốn mươi tuổi, với vẻ lịch lãm kiểu Anh quốc, tên là François-Gilles de Ferrouges.
Sự cởi mở của Ferrouges ngay lập tức khiến tôi cảm thấy anh thật đáng mến, đặc biệt là khi anh ta dành lời khen cho những ấn phẩm của tôi với những chi tiết đáng kinh ngạc. Không chỉ về cuốn Alexandre mà còn về cuốn sách luận của tôi, Alésia mythe et réalité , được xuất bản vào những năm 1980 và chỉ bán được vài chục bản. Anh thậm chí còn khẳng định đã đọc những bài viết của tôi trên Tạp chí khảo cổ học.
Trong khi đưa tôi danh thiếp, anh giải thích rằng, sau khi hoàn thành khóa học dự bị đại học ở trường Fénelon và chương trình đại học, anh đã thành lập một công ty kinh doanh cổ vật trực tuyến, và đang hợp tác với một nhà đấu giá quốc tế. “Tôi đã được nhận vào trường Sư phạm Paris, đậu kỳ thi tuyển giảng viên Lịch sử. Thực ra, tôi luôn đam mê lịch sử, nhưng sau những nỗ lực trong giảng dạy, mọi thứ đều không may mắn theo nhiều hướng khác nhau, vượt ngoài sức tưởng tượng, nên tôi đã quyết định dấn thân vào lĩnh vực kinh doanh. Trường đại học của chúng tôi đang trong tình trạng thật tồi tệ, sinh viên đang quay lưng lại với việc nghiên cứu lịch sử, tôi đã phải tự tìm một hướng đi khác...”
Cái tên Ferrouges hình như đã thấy đâu đó và tôi đang tự hỏi khi nào và nơi đâu tôi đã nghe nói về anh ấy thì tôi bỗng nhớ đã nhìn thấy cái tên này trên danh sách các nhà hảo tâm được khắc trên một phiến cẩm thạch bên trong nhà thờ Saint-Louis ở ngoại ô Carthage. Danh sách đó có hơn hai trăm cái tên, tất cả hậu duệ của Thập tự quân cổ đại, những người đã đáp lại lời kêu gọi cống hiến của Đức Hồng y Lavigerie vào năm 1890 để xây dựng thánh đường được chọn làm nơi nhận một trong những xá lợi của thánh Louis (nội tạng được giao cho thành phố Monreale, xương cốt được đặt tại Saint-Denis). Vào tuần trước, Rim và tôi đã đi dạo trong một tòa nhà vắng vẻ được trải thảm, nay được trưng dụng làm phòng triển lãm hoặc nhà hát.
Con bé chưa bao giờ đặt chân vào nhà thờ, nó hỏi tôi về việc phụng vụ Công giáo sau khi tiếp tục giải thích với tôi rằng thánh Louis đã theo Hồi giáo trước khi chết. Tôi nhớ vài cái tên. Gia tộc Périgold, gia tộc Chanaleille, gia tộc Cossé-Brissac, gia tộc Sabran, gia tộc La Rochefoucauld... Còn gia tộc Ferrouges, mặc dù họ ít lẫy lừng hơn, nhưng vẫn có quyền lưu tên mình trên bảng cẩm thạch. Một người dòng họ Ferrouges đã leo qua tường thành Jerusalem với thanh kiếm trong tay.
Những cái tên và huy hiệu được khắc xung quanh chính điện và trên những cột trụ ở gian giữa có vẻ như lạc lõng trong độ cao của thánh đường. Những dòng họ danh giá này chỉ còn hiện hữu trên các trang tạp chí kinh tế. Hậu duệ của những người đồng hành cùng thánh Louis làm việc cho nền tài chính Pháp, cho những quỹ trợ cấp Hoa Kỳ hoặc cho ông vua dầu mỏ xứ Hồi. Đã một trăm năm, vào lúc xây dựng nhà thờ, những người con trai vẫn còn đến mơ mộng tại nơi bố họ đã từng sống. Ngày nay, họ kiếm tiền tươi. Cuộc viễn chinh của người nghèo giờ đã thành quá khứ.
Ferrouges đã gọi hai ly rượu sâm panh, như thể anh ta đọc được suy nghĩ của tôi và nói:
“Chúng ta không chọn thời đại để sống, mỗi thời đại đều có mặt tốt và mặt xấu, nhưng nếu muốn tồn tại, ta buộc phải đến những nơi kiếm ra tiền. Levent không nói ngay với tôi rằng ông đã biết chuyện. Tôi cảm thấy an tâm khi anh ấy nhắc đến tên ông. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng anh ấy có quan hệ với giới hàn lâm...”
“Tôi từng quen thân với bố của anh ấy, ông đã tạo điều kiện cho công việc khảo cổ của tôi vào thời điểm tôi gặp khó khăn.”
“Levent có kể với tôi. Ông thật đáng nể... Hơn ai hết, ông biết rõ tụi Hồi giáo cực đoan đang phá hủy mọi thứ khi có thể, may mắn rằng có những người như ông và tôi. Mọi thứ chúng ta mua từ chúng đều được cất giữ nguyên vẹn, chúng ta phải được trao huân chương...”
Khi anh ấy thấy tôi cười, một vẻ thư thái hiện trên khuôn mặt anh. Tôi đã trả lời những câu hỏi của anh với cương vị một kỹ thuật viên về cái anh gọi là “độ sâu của mỏ”. Anh ấy muốn biết rõ hơn về các địa danh, về Moussa, về việc gia nhập Nhà nước Hồi giáo của hắn, về tần suất giao hàng, tôi đã cung cấp thông tin anh cần, ngạc nhiên khi không cảm thấy ghét anh ấy. Đây là một con người uyên bác, tâm thế thoải mái, có vốn kiến thức đáng kinh ngạc về những địa danh ở Libya, và ra vẻ thích thú.
“Việc này có thể kéo dài, ít ra chúng ta có thời gian để gom góp một ít chiến lợi phẩm. Trong khi chờ đợi, tôi rất có hứng khi làm ăn với những tên râu rậm này. Đây là mặt phản diện của tôi. Tôi cho ông hay: càng chơi với họ, tôi càng cảm thấy sảng khoái. Rồi sau đó... bác biết đấy... đa phần khách hàng của chúng tôi là những triệu phú Ả Rập. Vào thế kỷ 19, người châu Âu hành xử như thể họ là chủ của những địa danh mà họ cướp bóc, theo một cách nào đó, ông và tôi, chúng ta chỉ trả lại cho họ những gì thuộc về họ...”
“Chúng tôi đã tìm ra tất cả những địa danh này. Chúng được chôn vùi dưới hàng lớp đất cát, hoàn toàn bị lãng quên.”
“Nhưng ta đã cướp tất cả những gì ta lôi ra từ lãng quên.”
“Chính chúng ta đã chỉ cho những đất nước này thấy được những gì họ có. Nếu chúng ta không làm việc này...”
“Ông đừng làm vẻ mặt đó. Ông có bị trầm cảm không?”
Tôi giật mình. Bruce cũng hỏi tôi câu hỏi đó ở Cairo, bốn mươi năm trước.
Ferrouges nói tiếp: “Thôi nào, ông nên quên đi lương tâm của mình. Sự thật là người phương Tây tin rằng họ có thể đảm nhiệm mọi chuyện và chiếm giữ hành tinh này.”
Sau một giờ nói chuyện, anh nói với tôi rằng phải đi vì được mời ăn tối ở miền quê, cách London khoảng năm mươi cây số. Lúc rời đi, anh đưa tôi một phong bì giấy kraft và nói:
“Đây là chi phí của bác.”
“Tôi không đòi hỏi gì.”
“Ông cứ nhận và đừng giận tôi. Hãy xem đây là phần bù rủi ro.”
Anh biến mất trong đám đông tại sảnh. Tôi nhìn vào phong bì: rất nhiều tiền. Những tờ 500.
Khi gặp lại Rim, con bé kể với tôi bằng giọng bình thường rằng đã xảy ra nhiều thứ ở Tunisia trong bốn mươi tám giờ tôi vắng mặt: “Tụi Hồi giáo cực đoan đã chặt đầu một cậu chăn cừu mười sáu tuổi và gửi đầu cho em trai cậu ấy trong một cái túi để nó đem về cho bố mẹ. Và một quả bom đã giết chết mười lăm binh sĩ bảo vệ Tổng thống. Biên giới với Libya đã đóng cửa trong mười lăm ngày.”
Tối hôm đó, con bé nói rằng muốn tôi đưa đi du lịch Paris. “Khi còn có thể... Cháu có cảm giác mọi thứ thay đổi rất nhanh.” Đó là lần đầu tiên con bé xin tôi điều gì đó...