❖ 8 ❖ Les Tamaris, El Marsa, Tunisia
Tôi thức dậy cùng ánh mặt trời, bày biện bữa sáng trên chiếc bàn nơi sân thượng, đọc những email của tối qua, và tự chuẩn bị một tách cà phê cho mình. Một buổi sáng tinh khôi cùng cà phê vì tôi thích thế, pha loãng nhưng vẫn mạnh. Buổi sáng sớm này thuộc về tôi, hơn thường lệ. Những dải bọt biển nhẹ tênh bồng bềnh trên mặt nước. Vài ngư dân ra khơi bằng thuyền. Không có một làn gió thổi. Chỉ có sự dịu mát của không khí. Biển cả và mặt đất bất động, âm thanh chính xác trong im lặng. Tiếng kêu của mòng biển, tiếng động cơ khởi động, tiếng vỗ của nước. Tôi nghĩ về cái mà tôi gọi là người Carthage cổ đại vô danh.
Được phát hiện trong một nghĩa địa người Carthage cổ đại vào năm 1994 gần ngôi nhà mà chúng tôi đang sống bây giờ, bộ xương hầu như vẫn nguyên vẹn được vận chuyển cùng những tấm bùa hộ mệnh trong cỗ quan tài được khai quật lên từ lòng đất. Ngày nay, cổ vật này được trưng bày ở bảo tàng Carthage. Người này đã chết khi còn rất trẻ, và rõ ràng là khỏe mạnh. Tại sao? Cuộc sống của anh ta như thế nào? Anh ta có phải là tổ tiên xa của Rim không? Con bé cho rằng hiện nay nó cảm nhận vừa là người Phoenicia vừa là người Ả Rập.
Tôi vừa nhận email của một đồng nghiệp từ Viện Nghiên cứu Khảo cổ Dự phòng Quốc gia thông báo rằng trong một chuyến đi khai quật ở Bergheim (Haut-Rhin), nhóm của anh ta đã phát hiện tám bộ xương nguyên vẹn và bốn cánh tay trái. Cũng ở Alsace, vài năm trước, họ đã tìm thấy bảy cánh tay trái trong một cổ mộ. Những đồng nghiệp của tôi đã xuýt xoa tỏ vẻ ngạc nhiên. Bảy cánh tay trái sao? Một trong số họ bày tỏ với một nhật báo: “Thời đồ đá mà lại có nhiều cánh tay trái như thế, và nhiều bạo lực ở Alsace.”
Một lần nữa tôi thấy mình đã đúng khi chọn sống ở El Marsa, một nơi cách biệt với thế giới, một chút ẩn dật, như bao nhà khảo cổ khác, trong cái thị trấn tỉnh lẻ này không còn thu hút ai đến kể từ khi những sự kiện bắt đầu. Tôi có thể tận hưởng từng khoảnh khắc trong ngôi nhà Ả Rập cũ kỹ mà mình đã chọn và tân trang lại. Chỉ mới hôm qua, Rim nói với tôi: “Về chuyện này, cháu thích căn phòng của mình, những bức tường trắng cao, những tấm rèm cửa, sân thượng, buồng tắm lớn cùng với những bức tranh khảm xanh lá và xanh dương. Cháu cảm giác rằng mình thật sự đang ở nhà và quên mất nơi mình từng ở.”
Tôi làm cho mình thêm một tách lớn cà phê nóng và phơi nắng dưới ánh mặt trời; tôi cảm thấy mình như một hạt bụi yêu đời và cường tráng, được trao cho thế giới, giàu niềm hạnh phúc bất ngờ, thật là phi lý, nhất là ở độ tuổi của tôi, tôi hoàn toàn ý thức được điều này, lúc đó tôi nghe thấy những tiếng la hét trên đường. Nghiêng mình dựa vào lan can trên sân thượng, tôi bắt gặp đám thiếu niên đang vẽ bậy lên tường nhà. Tôi phóng xuống cầu thang. Chúng tháo chạy như một đàn chim sẻ.
Khi xoay người về phía bức tường, một hình ảnh quen thuộc ngay trước mắt tôi. Bọn du côn đã vẽ hình bảy dương vật màu đỏ bị một con dao găm lưỡi cong găm vào. Con số bảy, rõ ràng là con số biểu tượng trong kỷ đồ đá. Thông điệp đã rõ ràng. Tôi tự nhủ rằng sẽ có rất nhiều dương vật bị cắt và bạo lực sắp xảy ra.
Tôi không báo với Rim, nhưng cô bé nhanh chóng thừa nhận rằng đã bị những tiếng la hét đánh thức. “Chúng nói sẽ phanh thây chú ra thành bảy mảnh...” Tôi không an tâm khi nó đi đến trường, nhưng mọi thứ trong khu phố dường như vẫn yên bình. Tôi đã để nó đi và trở vào trong nhà truy cập trang báo Le Monde để tìm hiểu thêm về chuyện chặt tay ở Alsace. “Bằng chứng trực tiếp về việc ăn thịt người thì không thể nào xác minh được. Nhưng ở đây, chúng ta có những dấu hiệu lặp lại, rất hệ thống, góp phần khiến chúng ta nghĩ rằng những xác chết đã bị ăn [...]. Những vết gãy nứt, vết mổ, vết cào, dấu răng nhai, cho thấy những thi thể đã bị phanh thây, gân và dây chằng đứt lìa ra, thịt bị xé toạc, xương thì bị gãy. Những đốt sống bị cắt ra để lóc khỏi xương sườn, như người ta thường làm trong lò mổ đối với phần cột sống trên. Những nắp sọ bị cắt ra để lấy não. [...] Những phần xương nhiều dinh dưỡng nhất là ở mô xốp và tủy, đốt sống và xương ngắn, đã còn lại rất ít, dấu hiệu cho thấy chúng đã bị lấy đi.”
Tôi giật bắn người khi nghe tiếng đập cửa. Là Rim sao? Sớm thế... Quần áo con bé rách bươm, trên cổ nó có những vết cào xước dài, và một vết thương hở trên cổ tay trái. Con bé ngã quỵ xuống chiếc thảm ở lối vào. Tôi làm mọi cách trên đời để ép nó kể lại những gì đã xảy ra. Con bé rên rỉ, quặt người, như một con vật bị thương.
Rim bị hành hung trên con đường ven bờ biển, cách nhà chưa đầy năm trăm mét. Nó nhận ra những kẻ tấn công mình, chúng gồm ba người, là những ngư dân sống gần Les Tamaris. Những thiếu niên mà chúng tôi luôn giữ mối quan hệ thân thiết. Chúng xé toạc quần áo và sờ soạng con bé, lăng mạ nó là con điếm của tên người Pháp. “Bọn tao sẽ phanh thây nó, thằng người Pháp, Allah vĩ đại, còn mày, bọn tao sẽ ném mày ra biển...”
Gần trưa, những thanh niên, hẳn là bọn chúng, đến và ném xác những con mèo bị cắt cổ vào trong hiên nhà. Chúng xông vào nhà và có vẻ như chẳng sợ gì cả. Ba điềm báo trong một buổi sáng, quá đủ rồi.
Tôi đã để Rim ở nhà và khóa cửa ba lớp, sau đó đi dạo một vòng quanh khu phố để tìm hiểu xem chúng tôi có phải là nạn nhân của những hành động đơn lẻ hay không. Người đầu tiên tôi gặp là cô giúp việc nhà tôi. Cô ấy lại gần và nói rằng sẽ không đến nhà tôi làm việc nữa. Không một lời giải thích, không nở một nụ cười, trong khi cô ấy là người luôn vui vẻ và thân thiện. “Đáng nguyền rủa...” Đó là tất cả những gì cô ấy nói với tôi trước khi ngoảnh gót đi. Những người tôi xem là bạn - lão thương gia bán bạch tuộc ven đường, gã công nhân làm đường thu nhặt rác thải, cựu quan chức nhà đất, người chữa căn bệnh tim bằng cách đi bộ mỗi sáng trong gần hai tiếng đồng hồ, tất cả những người thường hay đáp lại lời chào của tôi, đều quay lưng lại với tôi. Dịch hạch đã trở lại, nhưng kẻ bị hắt hủi là tôi, tôi là người không nên tiếp cận. Tôi ngồi xuống một băng ghế để suy nghĩ. Một người lái xe hơi xúc phạm tôi khi chạy ngang qua. Tôi cảm thấy mình yếu đuối và dễ bị tổn thương, không thể bảo vệ được cho Rim.
Con bé đã lấy lại bình tĩnh. Chúng tôi rào chắn ngôi nhà lại và bắt đầu bàn luận trong căn bếp, xem xét vấn đề ở mọi khía cạnh, nghiêm túc nhất có thể. Hai giờ bàn luận trong vô vọng, không có lối thoát. Chúng tôi đã bước vào một cơn ác mộng, báo hiệu những điều khác. Chính con bé là người đầu tiên nói rằng chúng tôi phải rời đi. Tôi quyết định liên lạc với văn phòng Air France ở Tunis. Vị giám đốc mà tôi chỉ gặp thoáng qua đã vắng mặt. Thư ký của ông cần tôi cung cấp số hộ chiếu cho hai vé đi Paris. Cuộc trốn chạy về Pháp là phao cứu duy nhất của chúng tôi. Rim không có hộ chiếu lẫn chứng minh thư, hơn nữa nó vẫn là trẻ vị thành niên. Tôi vùi mặt lên vai nó, chúng tôi ngồi cạnh nhau im lặng, hai kẻ đáng thương bị nỗi thống khổ dằn vặt, trong khi những suy nghĩ chết chóc không ngừng quay cuồng trong đầu.
Con bé đề nghị với tôi: “Chú thử liên lạc với người bạn ở Tripoli xem, có thể ông ấy sẽ có cách giúp chúng ta rời khỏi đây.”
Tôi nhảy dựng đáp lại: “Cháu điên rồi! Khùng quá rồi... Đó không phải bạn chú, ngược lại là đằng khác, thật điên rồ khi cháu có thể nói được điều như vậy...”
Con bé ngả lưng vào ghế và nhìn tôi. Đó là lần đầu tiên tôi lớn tiếng với nó. Tôi tự hỏi mình có đáng ghét trong mắt con bé không. Ngạc nhiên trước sự hung tợn của mình, tôi không thể làm hay suy nghĩ được gì. Bất chợt, tôi nhớ rằng Moussa đã cho tôi thông tin liên lạc của một ngư dân ở La Goulette, trong lần gặp mặt thứ hai hoặc thứ ba gì đó. “Ông có thể cần đến nó, chúng ta không biết trước được điều gì, nếu một ngày ông cần chuyển đồ vật về nhà ông. Ông có thể gọi cho anh ấy và nói do tôi giới thiệu, anh ấy tên là Hassan...” Tối hôm đó, chúng tôi rời khỏi nhà như thể chúng tôi đi ăn tối.
Tại La Goulette, tôi ngạc nhiên khi Hassan bảo tôi để lại xe ở bãi giữ xe của ngư dân. “Tôi sẽ giữ chìa khóa xe của anh và sẽ để mắt đến nó. Chúng ta sẽ đi từ Sidi Bou Saïd, vậy sẽ tốt hơn, tôi có một chiếc thuyền khác ở bến du thuyền. Thoải mái hơn và đặc biệt nhanh hơn cái xuồng đánh cá của tôi.” Trời đã tối khi chúng tôi lên con thuyền Sarnico Maxim 55 HT, một dòng du thuyền loại nhỏ kiểu dáng hơi cũ, không được bảo dưỡng tốt, nhưng nhìn bề thế. Anh ta đã mua nó từ con trai của cựu Bộ trưởng Ben Ali và chỉ sử dụng nó với “những người bạn”. Hassan đã đòi một khoản phí khổng lồ để dẫn chúng tôi đến Malta, tôi không còn sự lựa chọn, tôi đồng ý mà không chút mặc cả và đã đưa anh ta trước một nửa số tiền, bằng tiền mặt. Tôi vẫn còn một ít tiền mặt mà khách hàng người London “của tôi” từng đưa và tôi mừng vì đã đồng ý nhận nó.
“Anh không giết ai đó chứ?” Đấy là câu hỏi duy nhất mà Hassan dành cho tôi. Còn lại, rõ ràng đó không phải là vấn đề của anh ta. Khi nhìn thấy Rim, và gọi nó là “tiểu thư”, anh ta nở một nụ cười nhỏ với hàm ý: “Ok, tôi hiểu rồi...” Tâm trạng khá vui vẻ và anh ta cho khởi động thuyền, cùng lúc đó tên thủy thủ tháo các dây neo. Anh nói: “Thời tiết thật tốt, có trăng, không có gió, không có biển. Như trò trẻ con...” Đó là một đêm kinh khủng nhất đời tôi.
Rim và tôi ngồi sát vào nhau trên băng ghế dài bên trong thuyền. Hassan đang xem một phim Thổ trên điện thoại ở phía trước thuyền, tên thủy thủ của anh cầm lái. Tôi biết Rim cũng nghĩ như tôi. Buổi sáng đó, tôi thức dậy, làm một tách cà phê và tự nhủ rằng mình là vua của thế giới này, buổi tối đó, chúng tôi rời khỏi nhà mà không mang theo gì ngoài chiếc túi du lịch, cùng với nỗi sợ hãi trong lòng. Trong phút chốc, chúng tôi giống như hàng nghìn người thống khổ vượt biển để sinh tồn. Sau hai giờ trên biển, Rim cảm thấy mệt, chúng tôi lùi vào boong sau để tránh gió và cuộn mình trong chăn. Trong này ấm hơn so với chỗ buồng lái mà Hassan để điều hòa ở mức tối đa, nhưng nó ẩm ướt hơn. Bóng tối bao trùm lấy chúng tôi, vô số vì sao trên trời tạo nên một chiều sâu vô hạn, chúng tôi vẫn đơn độc. Nhiều lần, tôi đã ngỡ nhìn thấy những chiếc thuyền chở người di cư, nhưng không chắc chắn, lộ trình của chúng tôi luôn đi chệch khỏi cái có thể gọi là ảo ảnh, nhưng tôi không muồn nói chuyện, tôi đã im lặng, Rim vẫn đang ngủ.
Ngày mới vừa ló dạng thì Hassan đã cập bến, gần khách sạn Palm Rock, ở Sliema, trên bờ biển Malta. Tôi trả phần tiền còn lại của chuyến đi, anh ta rời đi mà không chào tạm biệt “cô tiểu thư”. Nhân viên tiếp tân không hỏi tôi gì cả. Tôi đặt hai phòng kế nhau và nói rõ cho anh ta rằng thuyền chúng tôi đã thả chúng tôi ở bến và những thủy thủ đã đi giải quyết một số vấn đề kỹ thuật ở Valletta. Tôi trả trước tiền cho ba ngày và để lại cho anh ta một số tiền boa hậu hĩnh. Rim lao vào ngủ, không thay đồ và không nói gì. Trước khi con bé ngủ, tôi cũng đã nói rằng: “Nhờ có cháu mà chúng ta mới ở đây, vì nếu cháu không nhắc về Moussa thì chú đã không nghĩ đến tên ngư dân này.” Con bé mỉm cười, nói: “Ngủ ngon.” Hai từ và một nụ cười mỉm là đủ với tôi rồi, trời đã sáng, “khẩu súng” của tôi giương nòng, tôi gọi phục vụ phòng và yêu cầu một tách cà phê.