← Quay lại trang sách

❖ 11 ❖ Courcy-la-Chapelle, Aisne, Pháp

Sau sự việc đóng cửa khu biệt thự, Lambertin yêu cầu tiếp tục gặp Harry và bảo vệ nó. “Bây giờ chúng ta đều không thể hoạt động. Nhưng cậu chịu trách nhiệm về thằng bé, và cũng là trách nhiệm của tôi. Nếu cần thiết phải quay về Malta, tôi sẽ thông báo với cậu. Đừng quên tôi đang nắm giữ phần quỹ đen còn lại của biệt thự, kinh phí của cậu nếu cần đến, sau đó chúng ta sẽ thanh toán một lượt.” Bruno kiềm chế không hỏi chuyện sau đó là gì dù anh dường như chắc hắn, rồi anh đi đến nhà bố mình để hoàn thành việc dọn nhà. Trước vô lăng chiếc Jumpy trắng thuê tại Super U dưới nhà, anh nhớ về ngày đi trên con đường này cùng với Marie-Hélène, khi anh đưa cô ấy ra mắt bố mẹ mình.

Anh đã sốc khi nhìn thấy song cửa đóng lại và bảng BÁN NHÀ treo trước mặt tiền. Marie-Hélène đã rời bỏ anh, những đứa con gái cũng đang dần xa anh với tốc độ đáng kinh ngạc, anh không còn nhà, bố mẹ đã qua đời, thật ra anh không còn giữ lại thứ gì của bố mẹ. Anh không bao giờ nghĩ rằng có nhiều thay đổi đến nhanh như thế.

Hai anh của Bruno sống tại những ngôi làng gần đó đã dọn dẹp nhà và lấy đi những nội thất họ thích sau khi nói với anh về chuyện đó. Họ chất đầy vào hơn hai mươi thùng các-tông giấy tờ, những tờ báo cũ, chén đĩa và quần áo không còn sử dụng, đặc biệt là tủ quần áo của mẹ mà bố không bao giờ vứt bỏ. Những người dọn rác mang cả một chiếc xe rác tới để dọn mọi thứ khi Bruno cho phép.

Khi Bruno gặp lại hai anh, cuộc bàn luận cũng không quá tồi tệ. Có lẽ họ đều hiểu rằng họ đang sống trong những khoảnh khắc cuối cùng của tình anh em.

Kể từ bây giờ, mạnh ai nấy lo. Anh em hay không thì cũng mặc kệ.

Mùi ngôi nhà không thay đổi nhưng có những vết muối trên sàn nhà và những vách tường chỗ lối vào, luôn ẩm ướt, bốc lên mùi mốc.

Bruno bắt đầu chất những đồ đạc thuộc về anh lên chiếc xe tải nhỏ. Ba ghế bành lạc quẻ, hai ghế nệm bằng da, một bàn thấp bằng gỗ anh đào, vài chiếc ghế, một tủ sách nhỏ bằng gỗ thông do bố anh làm trong ga-ra. Bruno nhớ mình đã phụ bố sơn chiếc tủ. Sau đó anh kiểm tra tất cả tủ treo trong bếp và lối ra vào, chúng không có ngăn bí mật. Anh đã nhiều lần nghe mẹ nói về những thỏi vàng mà bà được thừa kế sau khi họ đến Pháp (đã từ rất lâu). Anh cũng kiểm tra sàn nhà, nhất là sàn phòng ăn, với hy vọng tìm thấy một cái hầm. Không tìm thấy thứ gì, anh không thể không nghĩ rằng hai anh của mình đã cuỗm đi hết.

Việc kiểm kê các ngăn tủ đã khiến Bruno mất thời gian đến sập tối. Sách báo, hồ sơ tín dụng của những chiếc xe hơi, hợp đồng bảo hiểm, hàng chục sổ séc cũ, sổ ghi chép mà mẹ anh ghi chú lại những khoản chi tiêu mỗi tối cùng vài công thức nấu ăn được cắt ra từ báo. Bruno bắt đầu tuyệt vọng vì không tìm thấy gì riêng tư khi anh quyết định kiểm tra những thùng các-tông đựng quần áo. Mấy chiếc thùng chứa áo sơ mi bỏ đi, áo vét, quần dài, quần lót và vớ của bố, còn những chiếc quần tất, áo ngực, áo nịt, đồng phục, vớ dài, bốn chiếc đầm và một bộ đồ vét của mẹ. Bố anh vẫn giữ lại mọi thứ.

Bruno cảm thấy không thoải mái khi mở những chiếc thùng này ra vì anh cảm giác đang xâm phạm quyền riêng tư của bố mẹ. Điều đó như thể tôi đang bước vào phòng ngủ của họ mà không gõ cửa và tôi bắt gặp họ đang làm tình.

Ở dưới chiếc thùng cuối cùng, chỉ còn lại một chiếc đầm gợn sóng, màu vàng xanh, với những chiếc nút xà cừ lớn sau lưng, đã gợi lại ký ức của anh hơn ba mươi năm trước. Đó từng là một chiếc đầm sọc, phần dưới gấp khúc và loe, với hai chiếc túi phía trước, mẹ thường hay mặc khi họ đi cắm trại ở Xonrupt (bà vẫn mặc nó vài ngày sau đó, trong đêm rước đuốc ngày 14 tháng Bảy). Tại Xonrupt, “ngôi làng ngoại lai tuyệt vời cho những người Pháp ở Algeria” khiến anh trai anh thích thú (khi đó anh ta vẫn còn hài hước), họ trải qua hai tuần thư giãn và vui vẻ ở đây, mặc dù cơn mưa đến sớm và dai dẳng tại thung lũng Vosges. Ngay khi họ đến, bố vội vã dựng lều, cũng chật vật, và lần đầu tiên kể từ khi họ rời Sétif, bố gần như đã tìm thấy nụ cười, trong suốt chừng ấy năm không cười. Không cười và không khóc.

Bruno tìm chiếc đèn pin mà anh đã để lại trong chiếc hộp đựng găng tay của chiếc xe tải. Anh vừa có một trực giác điên rồ rằng mình sẽ gặp lại mẹ thân yêu ngay lúc này, giật mình bởi ánh sáng đèn pin, giống như ký ức về mẹ vào mùa hè năm đó ( ký ức hiển nhiên là có chút mơ mộng, hoặc được tái hiện từ một tấm hình, lúc ấy tôi vẫn còn rất nhỏ ), mẹ vẫn rất đẹp như thường lệ, với vẻ thanh lịch của mình, thần thái của một vũ công tango trong chiếc đầm đó, ngay cả khi đang rửa bát đĩa. Nhưng sớ vải thô cứng, lạnh căm và gần như nặng trĩu ấy không muốn nhảy múa. Ngọn lửa ký ức đã không sáng lên.

Anh lật chiếc đầm lại. Thứ gì đó rơi mạnh xuống sàn nhà. Một chiếc túi vải nhỏ được cột lại bằng dây, đầy những thỏi vàng. Anh chưa từng nhìn thấy vàng. Trong tích tắc, ký ức thời trung học ùa về tâm trí anh. Thời cuối cấp, anh đã học một tiểu thuyết có một nhân vật “nhìn thấy lại vàng lần đầu tiên kể từ chín năm”. Anh đã quên tựa đề cuốn sách và tên tác giả, nhưng vẫn nhớ dòng này. Chà, mẹ đã nghĩ đến mình, anh tự nhủ trong khi đếm những thỏi vàng dưới ánh đèn pin. Mình sẽ làm gì đây? Mình chia sẻ, mình giữ chúng? Họ sẽ làm gì? Họ sẽ giữ tất cả...

Trước khi rời đi, anh muốn trút bầu tâm sự nên quay lại nhà vệ sinh. Ngồi trên bồn cầu, anh phát hiện mình đã quên kiểm tra chiếc tủ sắt nhỏ nơi bố cất giữ thứ được gọi là “văn chương giải khuây”. Chiếc tủ chứa đầy sách về Sétif. Nó cũng cất những tấm hình được cắt từ tạp chí Match về chiến tranh Algeria. Anh gom hết mọi thứ, lặng thầm rời khỏi ngôi nhà, sau khi đi một vòng lần cuối với chiếc đèn pin, anh rọi ánh sáng đèn lần theo những bức tường, như muốn nói lời vĩnh biệt với mỗi gian phòng nơi anh từng sống, với bố mẹ, với những người anh mình, thấy chúng mang một vẻ đẹp mà trước đây không có. Vậy lúc đó là hạnh phúc? Hôm nay, nếu ai đó hỏi anh, anh sẽ trả lời là có không một chút do dự.

Trên con đường ngoằn ngoèo ở miền quê chìm trong giấc ngủ, trước khi ra Quốc lộ 4, anh cảm thấy tiếc nuối vì Marie-Hélène không ở bên cạnh mình, trong chiếc xe tải trắng hầu như trống rỗng này, quá to lớn so với những thứ ít ỏi anh vận chuyển. Lần đầu tiên, anh nghĩ về cô, thấy buồn nhiều hơn là tức giận. Chuyến thăm ngôi nhà của bố mẹ đã khiến anh xúc động nhiều hơn mình nghĩ, anh lái xe theo quán tính, với dáng vẻ vật vờ trong chiếc Jumpy, như đồ đạc đang ngả nghiêng trong khoang xe vì anh không tìm thấy dây thừng để cột chúng lại. Chúng ta đã đánh mất những gì mà bố mẹ mình đã đạt được, sau những gì bố mẹ chịu đựng, anh tự nhủ khi đến cửa ngõ Bercy. Anh nhận ra mình hoàn toàn quên béng đi việc ghé qua nghĩa trang. Mình thật bất hiếu, không những chiếm giữ của giấu, mà còn không biết đến cảm ơn bố mẹ.

Trở về nhà, anh in một bài viết trên Wikipedia về Sétif, “Những cuộc thảm sát ở Sétif, Guelma và Kherrata đều là những cuộc đàn áp đẫm máu theo sau những cuộc biểu tình chủ nghĩa quốc dân, chủ nghĩa độc lập và chủ nghĩa chống thực dân xảy ra vào tháng Năm năm 1945 tại Constantinois, Algeria trong thời thực dân Pháp...”, sau đó anh dành phần còn lại của buổi tối và buổi sáng ngày hôm sau để đọc những cuốn sách được tìm thấy trong nhà vệ sinh. Bố anh đã không để lại chú thích nhưng ông đã gạch chân những dòng nhắc đến những cuộc thảm sát của người Pháp. Anh vẫn nghe thấy những lời kể hồi tưởng mang tính hoài nghi và sợ sệt của bố vào những lần ít ỏi ông đề cập đến những sự kiện này, và luôn vắn tắt. Không hề thù hận, nhưng có rất nhiều câu hỏi tiếp tục đeo bám. Ông giữ ý nghĩ rằng ông đã bị đuổi khỏi vùng đất thuộc về mình, vùng đất mà tổ tiên của ông đã đổ mồ hôi và máu để gầy dựng nên. Ông đã từng nói với con trai mình mà không hề giải thích thêm để nhắc về tình hữu nghị với những người bạn Ả Rập: “Chúng ta cũng là người Algeria như họ! Họ cũng là những người đã chống lại chúng ta. Những người như chúng ta, bố của họ đã từng đánh bài với bố của ta tại quán cà phê, chúng ta chưa bao giờ làm họ tổn thương.”

Vì chính thức được nghỉ phép, Bruno quyết định đi đến kho lưu trữ của quân đội tại Vincennes, nơi anh chưa từng có thời gian để đến khi còn đang làm việc. Anh nợ bố điều đó: ít nhất cũng tìm hiểu những gì đã xảy ra tại Sétif vào tháng Năm năm 1945, vì bố luôn cho rằng Sétif là nơi đánh dấu sự khởi đầu của kết thúc. Theo một cách nào đó, ngày này đã đưa anh trở về điểm xuất phát của mình, về với niềm yêu thích dành riêng cho lịch sử, về với những câu hỏi anh đã tự đặt cho mình khi lớn lên. Đã từ rất lâu, sau một cuộc trò chuyện dài và mơ hồ, khá thân mật với bố, anh đã hỏi thầy Grimaud, trợ giảng tại Sorbonne nơi anh theo học. Mình thậm chí đã không đề cập lại điều đó với thầy ấy khi gặp lại nhau, thật tiếc.

❖ ❖ ❖

Kho lưu trữ quân đội, lâu đài Vincennes, Pháp

Anh tìm thấy một nơi để đỗ xe dọc con kênh, ngạc nhiên vì sự hoành tráng của tòa nhà mà anh chưa từng biết đến. Anh trình thẻ cảnh sát cho một đồng nghiệp ở cổng vào, một người anh đã có dịp gặp trong công việc. Viên cảnh sát nói với anh nơi đây là “tòa lâu đài hoàng gia vĩ đại và quyền lực nhất nước Pháp”. Bruno thừa nhận đã không biết về câu chuyện này, anh đã nghe nói về tòa lâu đài, về thánh Louis trong khuôn viên, dưới cây sồi của mình, phải, mình thậm chí đã đọc sách của Le Goff, người viết rằng thánh Louis xem công lý là nhiệm vụ hàng đầu của bậc bá vương như mình, nhưng đó vẫn luôn là một sự trừu tượng đối với anh. Đối với một người từng là giáo viên Lịch sử, không giỏi. Anh không thơ thẩn lâu trong những hành lang được theo dõi nghiêm ngặt, mà vào ngồi trong phòng đọc sách.

Nhiều tài liệu liên quan đến những sự kiện ở Sétif. Thủ thư mang đến những thứ anh yêu cầu trên một chiếc xe đẩy. Anh dành ngày đầu tiên để đọc tài liệu nhiều nhất có thể, nhanh nhất có thể, đọc lướt, nhưng không bỏ sót trang nào. Các báo cáo về những cuộc điện thoại, từng giờ cụ thể, trong chuỗi những sự kiện, báo cáo của những tướng lĩnh về cuộc nổi dậy ở Quận Constantine, báo cáo được đóng hàng chữ TUYỆT MẬT của sĩ quan hoặc hạ sĩ quan cảnh sát về nhiều cuộc nổi dậy và nổi loạn khác nhau, nhiều ghi chú chi tiết về trạng thái tinh thần của nhân dân, những bản tin tức do văn phòng số 2 của quân đoàn 19 phát đi, những ghi chú “thông tin về những người liên lạc”.

Đọc những giấy tờ được đánh máy này (một số bằng mực xanh, được in trên giấy pelure) hút hồn anh đến nỗi không thấy thời gian trôi. Điều anh tìm thấy trong xấp tài liệu được buộc sơ sài này là quá khứ của bố, của mẹ, và của tất cả họ hàng. Nhưng anh cảm thấy đang tiến vào một vùng đất xa lạ. Khung cảnh được tạo nên với hàng nghìn người du mục trên lưng ngựa, với súng và kiếm bên mình, bị máy bay oanh tạc, những người châu Âu sợ hãi trong trang phục trắng đã biến mất. Anh khó có thể hình dung cuộc sống của bố mẹ mình, khi họ còn rất trẻ, cùng với tất cả những người “chính gốc” Ả Rập hoặc Kabyla. Dù cố gắng lục lọi trong ký ức, anh chỉ nhớ về vài mảnh vụn trong cuộc đời họ, chủ yếu xoay quanh những hình ảnh còn sót lại của thảm họa chễm chệ trong phòng ngủ bố mẹ, và đo được mức độ bố muốn che giấu câu chuyện này, muốn quên đi những tốn thương và hổ thẹn.

Bruno chưa từng bao giờ hỏi họ. Hay không dám? Đúng vậy. Không dám động chạm đến sự im lặng của bố. Cũng có thể anh xem cuộc sống của chính mình là sự nối tiếp cuộc đời họ và không có gì để thêm vào. Sự kỳ lạ trong câu chuyện của họ - họ đã ở đó hơn một thế kỷ, và với một số người, như bố mẹ của anh, nghèo hèn ngay từ ngày đầu tiên đặt chân đến - có lẽ đã kìm hãm những cuộc điều tra của anh. Một câu nói của bố ùa về trong ký ức: “Chúng ta bị nghiền nát, những người khác cũng vậy, ngay cả khi họ nghĩ mình đã thắng trận, vì chỉ thắng trong chiến tranh, điều đó không bao giờ là đủ.”

Anh nhanh chóng thấy một báo cáo về một cuộc điện thoại của sĩ quan chính phủ ở Sétif: “Ngày 8 tháng Năm năm 1945, lúc 2 giờ: số hiệu 550/2. Tại Périgotville, ông Công sứ, trợ lý của ông, hai thực dân, Perrin và Rodriguez, cũng như hai lính bắn tỉa Pháp trong nhóm tiếp viện đã bị giết chết. Bà Parmentier, thư ký của Tòa Thị chính Sétif, đã bị giết khi đi du ngoạn bằng xe ô tô...” Bruno đã nghe nói nhiều về vụ ám sát Perrin được nhắc đến trong tài liệu này, bằng những lời ẩn ý. Đó là chú của bố anh.

Trong một tài liệu khác, một danh sách những “kẻ chủ mưu trong những sự cố xảy ra ở Mazouna, một xã chung của Renault” (báo cáo của đội trưởng Boucq), anh dừng mắt lại ở cái tên Bouhadiba Belmehel, được biết đến với cái tên Bilim ould Gouna. Bouhadiba... Anh vẫn nghe ai đó đọc lớn cái tên này, nhưng là ai? Anh nhớ ra khi trả tư liệu cho thủ thư. Khi anh hỏi Harry rằng nó có bạn bè, những người bạn thực thụ hay không, trong khu phố, thằng bé đáp lại với anh: “Có một người, một lão cựu chiến binh, ông Bouhadiba...”

Hôm sau, đúng giờ mở cửa phòng tư liệu, thậm chí là hơi sớm (anh vẫn có thời gian để thưởng thức một tách cà phê với vị thiếu úy, một nghiên cứu sinh trẻ, phụ trách phòng tư liệu), anh mượn lại đúng xấp tài liệu đó, đọc một cách chậm rãi hơn. Anh mang theo một quyển sổ ghi chú. Tất cả báo cáo đều ít nhiều kể giống nhau. Những ngôi nhà bị thiêu cháy, thực dân bị giết man rợ, đường dây điện thoại bị cắt, những trang trại bị những đám đông lớn, cùng gậy và súng bao vây, can thiệp không quân, đối với những hành động đe dọa, “ném bom và oanh tạc tạo hiệu ứng tốt nhất”, những toán “du mục” trên lưng ngựa, được trang bị súng, kiếm và gậy, thực dân cố bảo vệ trang trại, đàn bà và con gái bị hãm hiếp, những xác chết bị cắt xẻo.

Những người viết cho rằng một vài người châu Âu, trước “thế lực” và sự “căm phẫn” này, tuyên bố sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, “nhiều thực dân không dám quay trở lại đồn điền của họ, họ đòi một cuộc thanh trừng không thương tiếc.” Anh chưa bao giờ nghe bố có những lời lẽ như thế. Chưa bao giờ. Anh tìm vài từ có lẽ truyền tải tốt nhất điều hiếm hoi mà bố có thể nói với anh và ghi chú vào sổ: sợ hãi, khó hiểu, choáng váng.

Nguyên nhân của cuộc nổi dậy không hề được đề cập, nhưng kể lại “nỗi thống khổ sâu sắc tại nơi hoang vu nghèo nàn này, nạn thiếu lương thực đã làm suy yếu nặng nề nhân dân vùng cao nguyên và miền Nam”, một số kêu gọi “cần cải tổ sâu sắc” và “cải thiện số mệnh của người lao động bản địa”, hai “thứ cần thiết được mọi người đồng thuận”. “Nhiều cựu chiến binh của hai cuộc chiến tranh hoàn toàn bị lãng quên, thực tế không có công việc nào được dành cho thương binh khuyết tật.” Theo sau là dẫn chứng về một người bị cụt hai chân trông đợi trong vô vọng huân chương quân sự của mình, trong khi đáng lẽ phải trao cho ông thập tự giá.

Đến lượt anh bị choáng váng khi nhiều lần thấy bộ mặt khác của những sự kiện. Một vị tướng Duval nào đó khẳng định: “Cuộc nổi dậy ngay lập tức mang dấu ấn của cuộc Thánh chiến Hồi giáo.” Thù hận người ngoại đạo, tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc dưới chiêu bài cấm người Hồi giáo uống rượu, thành lập những ủy ban bí mật, những tòa án thanh trừng lập một danh sách đen những người Hồi giáo ủng hộ lợi ích Pháp, thư đe dọa ký tên “kẻ báo thù Hồi giáo”, những cuộc ám sát người Hồi giáo thân Pháp. Một nhà phân tích khác kết luận: “Sự căm ghét người ngoại đạo không bỏ sót người già, phụ nữ lẫn trẻ nhỏ. Những ai đã chứng kiến những cuộc tàn sát, những thi thể bị phanh thây tàn bạo, đều cảm thấy kinh hãi.”

Vậy chẳng có gì thay đổi? Sétif 1945, Paris 2016: cuộc chiến đó liệu đang tiếp tục? Anh nghĩ lại về điều Grimaud đã nói khi anh hỏi thầy sau giờ học: “Lucien Febvre đã viết, Lịch sử vừa là đứa con của thời gian, vừa là khoa học của thời gian.” Cần bình tĩnh, không có sự so sánh vội vàng, Lucien Febvre nói đúng, hãy cẩn trọng với những ám ảnh của thời đại chúng ta. Đồng ý, nhưng mình là cảnh sát, mình đang điều tra một phong trào thánh chiến, một chút kiến thức nền cũng không tồi...

Anh trả xấp hồ sơ cho gã nghiên cứu sinh, một gã đầu trọc với điếu thuốc điện tử, và đứng nói chuyện với hắn ở hành lang trong khi hắn hút. Anh hỏi hắn những tài liệu “Sétif” này có thu hút nhiều người không. Hắn đáp: “Không thể tin được. Nhiều thanh niên, không chỉ những nhà nghiên cứu và sinh viên. Tôi sẽ cho anh xem danh sách, anh sẽ ngạc nhiên đấy, chỉ trong vòng ba tháng vừa qua...” Số lượng người đến tra cứu những tài liệu này rất đáng kinh ngạc. Trong số những cái tên đó, Bruno nhìn thấy tên Bouhadiba. Anh nói: “Lạ thật, tôi đã thấy cái tên này trong một tài liệu, là một trong những kẻ chủ mưu của cuộc nổi dậy.”

“Bouhadiba này à, tôi đã trò chuyện một ít với anh ta, một nhà tài chính trẻ. Anh ta đã scan một số lượng tài liệu đáng kể trên chiếc điện thoại. Anh ta biết một trong những tổ tiên của mình có liên quan đến sự kiện này.”

Quay về xe, anh tự nhủ rất muốn đến nhà bố mẹ và kể cho họ những gì anh đã đọc trong kho lưu trữ quân đội hôm nay và nói với họ về những điều đó. Cũng như nói về phần tiếp theo. Vì nước Pháp cũng rất tàn bạo. Hơn nữa, Pháp đã bỏ rơi những người Algeria đấu tranh cùng chúng ta. Thật đáng xấu hổ... Một tiếng chuông nhỏ báo hiệu tin nhắn của cô con gái lớn của anh. Con muốn nói chuyện với bố, gấp, Laure. Laure sao, chà, con bé giờ mới tỉnh; tôi đã không gặp con bé nhiều tuần nay; đúng vậy, nhưng điều đó vượt quá sức tôi. Anh trả lời cô bé trước khi khởi động xe: Bố sẽ sớm gọi cho con, yêu con, Bố. Anh trở lại Paris giữa dòng kẹt xe và nhận ra mình đã không nghĩ về Marie-Hélène lần nào kể từ khi anh đến vào sáng nay. Suy cho cùng Sétif cũng có cái hay.