❖ 15 ❖ Khách sạn Palm Rock, Sliema, Malta
Tôi không nói với Rim về chuyện đó, nhưng tôi bàng hoàng. Thật kinh khủng. Trong những khổ nạn nghề khảo cổ của mình, tôi đã rời khỏi nhiều quốc gia nhanh hơn tôi muốn. Lebanon, Cyprus, Campuchia, v.v... nhưng chưa bao giờ tôi lại tháo chạy trong những điều kiện như vậy. Khi hồi tưởng những chuyến đi của mình ở Tripoli, tôi không thể không tự nhủ rằng mình đã thoát trong gang tấc. Hai liên lạc viên của tôi đã thành tro, trong tình trạng đặc biệt thảm khốc. Tôi đã biết về cái chết của Moussa khi xem kênh CNN tại khách sạn, trong khi Rim và Emma đang tắm nắng ở ven hồ. Moussa, tôi không thương tiếc hắn ta, tôi sẽ không khóc lóc sướt mướt vì một tên quỷ dữ, và nếu tôi đã chấp nhận lời đề nghị của Levent, đó là để hạ gục hắn và chấm dứt tình trạng cướp bóc của hắn. Người Mỹ đã không mất thời gian. Tôi đã gửi các thông tin cho Bruno để cáo buộc hắn và có lẽ để ám sát hắn, nhưng những kịch bản này vẫn còn rất mơ hồ. Tôi đã không nghĩ đến máy bay không người lái. Tôi tưởng tượng hắn chưa chết ngay.
Levent là một trường hợp khác. Tôi rất thân với bố của anh ta đến nỗi cái chết của anh khiến tôi xúc động. Năm mươi tư tuổi, nhỏ hơn tôi gần mười tuổi. Tất nhiên, anh ấy cũng không hơn gì đồng phạm Moussa của mình, mặc cho anh ấy cư xử theo cách của giới thượng lưu Ottoman. Tôi cũng đã gửi cho Bruno đủ bằng chứng để buộc tội anh về tội buôn lậu bất hợp pháp khi đúng thời điểm. Tương tự với vị khách hàng Pháp ở London. Chúng ta luôn nghiêm khắc hơn với người thân của mình. Không chỉ Ferrouges là người Pháp, vẻ thiện cảm, không chỉ anh ta tham gia vào mạng lưới tội phạm, mà anh ta còn mang một kiểu lương tâm khiến tôi bị sốc. Thật kiêu ngạo khi anh ta nói với tôi: “Trong gia đình của chúng tôi, chúng tôi đã luôn quen đi tới những nơi có tiền.”
Nhờ có Rifat, chúng tôi biết thêm một chút về cái kết của Levent, bị thủ tiêu trong nhà vệ sinh của sân bay trong khi anh ấy đang đón chuyến bay cuối cùng tới Rome. Đã bị bắn, như Rifat nói, bằng một khẩu 9 li gắn ống giảm thanh. Bà lao công thấy anh ấy gục ngã trong vũng máu trên bồn cầu, hộp sọ vỡ nát. Trò trẻ con đối với kẻ giết người: vách ngăn các phòng vệ sinh không chạm trần nhà. Cái chết rơi từ trên cao xuống. Levent có hai hộ chiếu (khác nhau) và hai điện thoại trong túi. Hình như, tùy viên Mỹ, John Peter Sullivan, đã có mặt trước cảnh sát Malta. Ông ấy đã mang đi tất cả mọi thứ.
Ngày hôm sau, Rim có cuộc hẹn với Emma, như mọi ngày kể từ khi chúng tôi đến. Ngay khi nghe tin, cô đã cố gắng liên lạc Emma nhưng vô ích. Tôi đi cùng Rim đến nhà của cô trong khu phố cũ Sliema cách khách sạn chúng tôi không xa. Một người bán rau quả ngồi cả ngày phía sau quầy hàng, đối diện nhà của cô, nói với chúng tôi rằng anh ta nhìn thấy cô rời đi trên một chiếc taxi với một chiếc túi du lịch xách tay. Tại văn phòng của cô, một người nào đó thông báo với chúng tôi rằng gia đình cô có tang buộc cô phải trở về Pháp.
Giờ đây, thậm chí hơn cả trước đây, tôi không được từ bỏ. Tôi đã giải thích với Rim rằng Dutilleux và Rifat đang cố hết sức để giục chúng tôi rời đi. Cũng có khả năng rằng Habiba, cô gái người Somali được Jeannette bảo hộ, sẽ đi cùng lúc với chúng tôi. Tin mới sốt dẻo đã giúp Jeannette lấy lại uy nghi trên bục truyền thông và giờ đây Rifat dường như tuân theo mệnh lệnh của cô. Tôi phải thừa nhận cô rất thân thiện. Tôi đã xem một trong những cuộc phỏng vấn của cô trên BBC và ấn tượng với bức chân dung Moussa của cô. Jeannette đã giới thiệu hắn ta như một kiểu người đột biến liều mạng trong thế giới sau khải huyền, một tín đồ chỉ sùng bái cái chết, “gần giống những kẻ vô chính phủ trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, hò hét Viva la Muerte! ”
Chúng tôi buộc phải nán lại nơi đây thêm một tuần nữa. Rifat đã báo trước với tôi rằng tùy viên quân sự người Mỹ có thể hỏi ông một số điều về Emma. Tôi đề nghị dành hai hoặc ba ngày trên hòn đảo nhỏ Gozo để đổi gió. Một chiếc thuyền đã đến đón chúng tôi tại bến và sau một giờ trên biển, chiếc thuyền thả chúng tôi xuống cảng phà ở Gozo.
Khách sạn tôi chọn cách cảng mười lăm phút di chuyển, bằng ô tô. Rim mượn Emma một cuốn sách của Balzac, Lão Goriot . Trên taxi, con bé đọc cho tôi nghe một câu mà nó thuộc lòng: “À! Hãy nhớ điều sau: vở kịch này không phải là truyện hư cấu hay tiểu thuyết. Tất cả đều thật, chân thật, đến nỗi mọi người đều có thể nhận ra những yếu tố đó ở chính bản thân mình, có thể trong tim mình.” Khi tôi hỏi con bé tại sao lại thích câu này, nó cười phá lên: “Cháu không đặc biệt thích nó, và cháu cũng mới bắt đầu đọc cuốn sách này, nhưng câu này làm cháu liên tưởng đến chúng ta. Kể từ khi chúng ta rời Carthage, cháu có cảm tưởng rằng chúng ta đã trở thành hai nhân vật trong một vở kịch mà mọi thứ đều giống hệt, chao ôi...”
Đó là lần đầu tiên tôi ngạc nhiên khi thấy mình bi quan. Bên ngoài cửa sổ xe taxi, những ngọn đồi khô cằn chạy dọc bên đường, bị các bức tường của một pháo đài bao trùm, sau đó là một đồng bằng trồng trọt, trải dài, xanh ươm màu lá xương rồng bao quanh, dẫn đến thị trấn nhỏ Sannat, nơi có những ngôi nhà bằng đá màu vàng, với sân thượng nằm trên cao, được tô điểm như nhà thờ bởi những lá cờ khổng lồ với màu sắc rực rỡ. Tôi muốn hỏi Rim rằng con bé có hối hận về mối quan hệ của chúng tôi không, nhưng nó im lặng.
Buổi tối, chúng tôi đang dùng bữa trên sân thượng, đêm về nhanh trên biển và trên các hòn đảo, một vài tiếng nổ làm chúng tôi giật mình. Những tiếng nổ dường như đến từ phía bên kia sân thượng, ở phía xa cây minh quyết. Khuôn mặt Rim nhăn nhó, con bé thì thầm điều gì đó khó hiểu. Tôi nghiêng người dựa vào nó và choàng tay qua cổ. Những thực khách xung quanh chúng tôi tiếp tục lấy thức ăn ở bữa tiệc buffet. Một bồi bàn tiến lại gần với chai rượu vang Sicilia của chúng tôi được giữ lạnh trong nước đá. Tôi hỏi cậu ấy những tiếng nổ này đến từ đâu: “Đó là lễ hội làng, chúng tôi bắn pháo hoa, đêm nay chương trình sẽ rất ấn tượng.”
“Chúng tôi có thể tham dự đúng không...” Rim nói rụt rè, bằng tiếng Ả Rập.
“Tất nhiên, thưa cô,” người phục vụ trả lời, “mọi người có thể tham dự.”
Ánh trăng lấp lánh theo chuyển động nhẹ của những cây cọ. “Cháu có nhận ra nó không?”
“Tất nhiên, đó là mặt trăng của cháu, mặt trăng Sidi Bou Saïd của cháu, mặt trăng Carthage của chúng ta, nó đã kết nối chúng ta, nhìn kìa, nó mỉm cười với cháu.”
Chúng tôi đi xuống những con đường ở Sannat nơi vang lên những tiếng cười và tiếng hát. Một đám đông di chuyển trong bóng tối. Các nhóm nhạc chạy khắp phố phường, theo sau là các nhóm nhỏ gồm mọi lứa tuổi và dường như hòa trộn tất cả các tầng lớp.
Chúng tôi đã chọn bước theo một ban nhạc kèn đồng, hòa cùng một nhóm người trẻ tuổi. Các chàng trai cầm chai bia hoặc rượu gin trong tay. Tôi không thể không để ý đến các cô gái, luôn xinh đẹp, dường như không lo lắng che giấu sự quyến rũ của mình. Trong nhà hàng, Rim đã phát hiện rằng con bé có thể hiểu tiếng Malta, gần giống với tiếng Ả Rập, nó rất vui khi nói một vài từ với những người đang đồng hành cùng chúng tôi. Người dân nơi đây đã trưng bày những bức tượng thánh họ sùng bái ở các lối ra vào nhà. Thánh Paul, thánh Mary, thánh Margaret - và thậm chí cả Chúa Jesus. Một số được trưng bày trong lồng kính, đôi khi có kích thước đồ sộ, được trang hoàng với chi phí cao. Qua sự xa hoa như vậy, nếu trong tình cảnh khác tôi đã cho rằng nó sến súa, giờ tôi thấy được cảm xúc tôn giáo sâu đậm của họ. “ Tất cả đều thật, ở đây cũng vậy,” Rim thì thầm vào tai tôi và mỉm cười.
Chúng tôi hòa mình vào sự hưng phấn vui vẻ, gần như quyến rũ, bao quanh chúng tôi. Tôi rất ấn tượng, khá cảm động - Rim cũng thế, sau này con bé nói điều đó với tôi. Tôi thầm hỏi về những gì chúng tôi đang trải qua. Lễ Thanh tẩy, lễ Lên đồng, lễ Dâng tặng, lễ Dionysia?
Các cuộc diễu hành xuất phát khác nhau nhưng cuối cùng hội tụ tại quảng trường của nhà thờ, tất cả các cánh cửa đều mở. Bên trong được chiếu sáng chói, được tô điểm và trang trí đậm, giống như mặt tiền bên cạnh, được bao phủ bằng một lớp trùm của bóng đèn điện nhiều màu. Trẻ em, các cặp đôi mặc áo phông và mang dép tông, những người trung niên, thanh thiều niên ra vào nhà thờ trong dòng người liên tục, chỉ dừng lại để cầu nguyện hoặc hồi tưởng. Một vài tiếng nổ báo hiệu sự khởi đầu của đợt pháo hoa cuối cùng, trong khi các nhạc sĩ và đoàn quân của họ tiếp tục lang thang trên những con đường tối tăm.
Đèn, biểu ngữ, nhạc lễ hội cũng như diễu hành chậm trong Tuần Thánh. Tại sao tôi lại nhạy cảm với những cơn sóng buồn tràn qua nơi ồn ào hạnh phúc này? Rim và tôi lặng lẽ trở về khách sạn, kèm theo nhịp điệu của những tiếng ồn ào dai dẳng vang lên từ xa.
Rim ngã xuống giường khi vào phòng và ngủ ngay lập tức. Một lát sau, Bruno gọi cho tôi qua chiếc điện thoại di động mà chúng tôi dùng để liên lạc. Tôi trèo lên mái nhà của bungalow để trả lời. Cậu yêu cầu tôi liên lạc với Emma càng sớm càng tốt. Tôi trả lời rằng cô ấy đã rời đảo.
“Không ai biết cô ấy đã đi đâu sao?”
“Không một ai biết.”
“Khi nào chú về?”
“Chúng tôi sẽ có mặt ở Paris trong ba ngày tới.”
“Cháu phải gặp chú ngay khi chú về tới.”
Đây là lần đầu tiên cậu sinh viên cũ không gọi tôi bằng thầy.
Sáng hôm sau, chúng tôi đến thăm những ngôi đền ở Ggantija, những công trình hoành tráng và rất bí ẩn. Chính Rifat đã nói với tôi về địa điểm này. Tôi chụp một bức ảnh hành lang lối vào và gửi cho đồng nghiệp của mình, đang đào bới ở Bergheim, tỉnh Alsace. Ở đây cũng vậy, như chỗ của cậu ấy, chúng ta đang đắm mình trong thời kỳ đồ đá mới. Ba ngàn năm trước các kim tự tháp.
Một nền văn minh từng rất phồn vinh trên hòn đảo này, biết lái thuyền, hiểu chuyển động của các chòm sao, có thể xây dựng bằng đá phiến to, điêu khắc thân hình người phụ nữ ở Botero và nền văn minh ấy đã lụi tàn. “Chú có nghĩ Tunisia sẽ được nhớ đến sau năm nghìn năm không? Và Pháp nữa?” Rim hỏi tôi khi chúng tôi xếp hàng ở bãi đậu xe để đón phà trở về. “Có lẽ các nhà khảo cổ học, những Maspero của tương lai, sẽ tìm thấy tàn tích của Les Tamaris. Họ sẽ tìm thấy một bức hình của cả hai chúng ta, và họ sẽ cố gắng viết nên cuộc đời của chúng ta. Cháu tò mò muốn biết những gì họ có thể kể!”