← Quay lại trang sách

❖ 9 ❖ Bản xưng tội tìm được ở Taurbeil-Tarte, ngoại ô Paris, Pháp

Ngày trọng đại đang đến gần. Tôi bắt đầu cảm thấy máu mình sôi lên và năm lần mỗi ngày, tôi chúc phúc cho thần Exauceur đã đưa tôi đi đúng con đường chính nghĩa. Sớm thôi, tôi cũng sẽ bước vào cuộc chiến. Lần lượt từng người. Hôm qua là đồng đội của tôi. Họ đã khiến nước Pháp phải quy phục. Một giờ là đủ cho họ. Có bao nhiêu người ở đó? Một số ít tuẫn đạo. Sau khi họ đi qua, lũ cớm khóc như mưa trên đường.

Tôi đọc trên báo thấy những chiến hữu của tôi vừa cười vừa trút đạn súng AK lên những tên đang nhảy nhót trong một hộp đêm. Tiềng cười đó chứa đầy sức mạnh! Chúng tôi cười, nước Pháp khóc, tôi muốn nói: rồi cũng đến lúc. Cái chết đã giáng xuống đầu những người Pháp trong đêm thác loạn. Họ nhận ra lời nguyền của Allah, đây chỉ mới là khởi đầu. Những kẻ ngoại đạo tự quăng mình vào sự chết chóc sẽ tiếp tục hứng chịu Hỏa ngục, họ mãi mãi không siêu thoát.

Tôi đã biết sự việc về các đồng đội qua tivi. Tuy không có hình ảnh, các đài không cho thấy gì cả, nhưng mọi người đều đoán được tình hình rất nghiêm trọng, hơn cả vụ Charlie, và người tôi bắt đầu run lên. Tôi đã run rẩy như vậy vào ngày tôi thấy những chiếc máy bay của Khalifah xé toang tòa Tháp đôi ở New York ngày 11 tháng Chín năm 2001. Ngồi trước màn hình tivi, tôi mất một lúc để hiểu tại sao mình lại run rẩy, và tại sao mình lại khóc. Tôi thậm chí còn hét lên với bản thân: Nhưng tại sao mày lại khóc? Mày lại buồn? Mày lại run rẩy? Mày sợ điều gì chứ? Câu trả lời ập đến như dòng sông. Ôi dòng nước ngọt ngào... Tâm hồn tôi đột nhiên giống như một khu vườn cọ và nho. Không phải nỗi sợ làm kinh động các tứ chi, không phải nỗi buồn khiến tôi nổi da gà, ngày ấy, tôi hân hoan. Lịch sử dân tộc tôi đã sang trang, tôi biết đến niềm vui khi được hít thở mà không sợ hãi, nỗi sung sướng vô tận của việc trả thù. Thủ phủ của những kẻ ngoại đạo bị thiêu bởi ngọn lửa của những tín đồ, ngọn đèn soi sáng thế giới của người Do Thái đang chìm trong lửa, ngôi đền mà họ xây dựng lại trên vàng ăn trộm từ chúng ta hàng thế kỉ trước không còn gì ngoài đống đổ nát, tro bụi và những tia lửa, tôi chưa từng thấy cảnh tượng nào đẹp hơn. Ôi một thảm họa... Những kẻ phỉ báng thần thánh đã bị trừng phạt. Không có Chúa nào ngoài Ngài, Sự sống, Sự vĩnh cửu: một ngày họ sẽ hiểu ra điều đó?

Vài năm sau đó, tôi đã nói về giai đoạn này, về sự bình yên và hạnh phúc trong tâm hồn, với Aziz, một trong những giám đốc ngân hàng Al Rajhi Bank, trong một lần lưu lại Riyad. Monmousseau muốn chúng tôi phát triển các hoạt động tài chính Hồi giáo tại Jordan và Kuwait với ngân hàng đó, vốn đã là một trong những đối tác của chúng tôi. Aziz đã đưa tất cả đoàn đàm phán đi dùng bữa tối trên sa mạc. Một đoàn xe Land Rover ghé qua đón chúng tôi ở khách sạn, sau đó chúng tôi chạy chưa đến hai mươi phút trên cao tốc dẫn ra thành phố. Đoàn xe đã đi vào một trục đường nối bằng bê tông để rời cao tốc đến một bãi đỗ xe nhỏ dưới cồn cát. Aziz bảo tôi cởi giày ra. Tôi theo anh lên đỉnh cồn cát. Cát vừa ấm vừa mát dưới chân. Trên đỉnh, tầm nhìn mở rộng đến tận chân trời. Mặt trời đang lặn thiêu đốt biển cát này.

“Cảm nghĩ của anh là gì?” Aziz hỏi tôi. “Tôi cố gắng đến đây mỗi tuần. Tôi thậm chí ngủ trong lều. Thật là có một không hai. Rõ ràng vì trong sa mạc chỉ có Chúa. Chúa và chúng ta. Dưới chân chúng ta, cát, đất, trên đầu chúng ta, những vì sao và ở khắp mọi nơi sự hiện diện của đấng Chúa từ bi.”

Một khu trại đón chào chúng tôi bên dưới, dành riêng một khu vực tiếp tân ngoài trời cho các bữa tiệc riêng tư, được trang bị nhà bếp và tất cả các tiện nghi cần có. Chúng tôi chạy xuống dốc cát. Những đầu bếp người Liban đang chuẩn bị món súp, salad, bánh rán nhân đậu, trong khi những người Bedouin làm món thịt cừu xiên nướng. Aziz mời chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế bành thấp được xếp theo hàng để chúng tôi vẫn có thể ngắm cảnh vật. Những người đàn ông trong chiếc áo sơ mi trắng vạt dài xuống chân, quấn khăn ghatra hoặc quấn khăn keffiyeh, biểu diễn một điệu nhảy múa kiếm và ê a bài thánh ca vọng cổ. Tiếng trống vang lên theo nhịp bài hát của họ, màn đêm bao trùm chúng tôi, nhiệt độ vẫn dịu mát tuyệt vời. Sau đó, trong khi một nhà thơ quỳ trên cát, hát về gió về sao cùng một người chơi đàn saz đệm, tôi đã có một khoảng thời gian tuyệt vời khi ăn thịt cừu bằng tay, hệt như mẹ tôi lúc trước thường làm khi bà vẫn còn sức để chuẩn bị các món ăn cho dịp lễ.

Trở về khách sạn, Aziz rủ tôi làm một ly với anh ở sảnh lót đá cẩm thạch màu hồng xám. Điều hòa giữ nhiệt độ mát. Bầy phụ nữ trẻ, che kín người bằng lụa đen, nhưng cheo leo trên đôi giày cao gót Louboutin 12 phân, cứ đi qua trước mặt chúng tôi. Một cửa hàng trang sức nổi tiếng ở Paris đã tổ chức bữa tiệc cocktail trong một khán phòng kế bên. Tôi chưa bao giờ gặp những người phụ nữ nào xinh đẹp như vậy. Tuy chỉ có thể nhìn thấy đôi mắt của họ, nhưng tôi nghĩ rằng mình có thể đoán được hình dáng và làn da của họ trong sự rạng rỡ của con ngươi.

Tôi nhớ cái ngày một người bạn tên Sadek dẫn tôi đến một nhà hàng Ma Rốc trên Quận 12. Khoảnh khắc Sadek gõ mã bảo mật thẻ ngân hàng để thực hiện thanh toán, hai thiếu nữ bước vào nhà hàng. Dáng người mảnh khảnh, khá xinh đẹp, phấn khích, có lẽ đã hơi ngà ngà, mặc đồ ngắn, vai trần. Nhà hàng đã đóng cửa. Ông chủ thô bạo đẩy họ ra phía cửa. Thay cho lời chào, họ lắc cặp mông nhỏ cong cớn dưới chiếc váy ngắn rồi bắn một tràng tiếng Ả Rập tục tĩu hỏi về khả năng tình dục của Nhà tiên tri. Thay vì cười, Sadek sững lại. Trán anh nhăn tít lại. Anh nhìn theo họ đi ra với ánh mắt hình viên đạn.

“Họ không có tự trọng gì cả,” anh ấy nói với tôi.

Tôi phản đối.

“Họ đáng yêu mà.”

“Tôi lạy cậu, cả cậu nữa sao.”

“Sadek, các cô ấy còn trẻ, họ có quyền vui chơi.”

Chúng tôi lập tức tiếp tục cuộc trò chuyện trên vỉa hè trước khi tạm biệt nhau. Cay đắng cuộc đời đã làm tính cách anh ấy đanh lại. Anh nói về những gì mình cảm thấy ngày càng thường xuyên hơn khi sống trong cái xã hội, mà theo anh, đã chạm đáy lịch sử của nó.

“Bọn Pháp chỉ khuấy bùn,” Sadek nói với tôi. “Cậu chỉ cần xem truyền hình của họ. Tối nào cũng chỉ có một chương trình đó. Tự ai nấy phát biểu để truyền bá quan điểm.”

Tôi trả lời: “Ma Rốc hay Algeria, quê hương của chúng ta cũng chẳng tốt hơn.”

“Chính xác. Phương Tây đã đánh mất linh hồn của mình, đó là vấn đề của họ, nhưng vấn đề của người Ả Rập chúng ta là chủ nghĩa duy vật và nỗi ám ảnh về nó đã làm ta ô uế.”

Tôi đã không trả lời.

Bây giờ, tôi thấy anh ấy có lý.

Anh xoay đầu. Hàng trăm người trẻ trên đôi giày patin đang đổ xuống đại lộ. Trước mặt bọn chúng, con đường vắng vẻ mang hình thù của một lỗ tối tăm, cảnh sát đã cấm xe lưu thông để chúng có thể tản bộ như mong muốn.

“Hãy nhìn những người trẻ kìa. Họ vui vẻ. Họ vô tư, tự do. Hẳn là anh muốn họ giống như hàng ngàn sinh viên được cho là đang lũ lượt quay về lại với truyền thống của đạo Hồi hơn, đúng không?”

Sadek nhìn tôi chằm chằm một cách kì lạ. Chúng tôi không còn gì để nói với nhau. Anh ôm tôi rồi biến mất trong biển người đông nghịt dù đã muộn.

Nhiều năm trôi qua.

Tôi tự trách bản thân vì đã xúc phạm bạn mình, khi ngắm nhìn những người phụ nữ ấy, di chuyển trong tiếng lụa, tôi có thể nhận ra mình đã thay đổi biết bao. Tôi không biết tại sao lại bắt đầu nói về cuộc sống của tôi và của bố mẹ. Có phải Aziz đã đặt câu hỏi? Tôi không thể nhớ những lời của mình. Một con đê chắn sóng đã vỡ. Tôi nghe chính mình nói về sự bất công đối với người Ả Rập ở Pháp và những nơi khác với sự bức xúc mà chính tôi cũng không tin mình có thể biểu hiện như vậy.

“Chúng tôi là những công dân hạng hai, chúng tôi sống trong các khu ổ chuột, tôi đã thành công thoát ra khỏi đó một cách ngoạn mục, nhưng những ngoại lệ như tôi rất ít... Sáu triệu người Ả Rập ở Pháp sống trong những nơi mà nơi nào cũng ít nhiều thối nát. Dù gọi là thành phố hay khu phố, khắp nơi chúng tôi đều bị khinh bỉ. Anh em chúng tôi bị cảnh sát bắn nhưng chính họ bị hệ thống pháp lý kết án. Quyền cơ bản của chúng tôi không được tôn trọng, chị em của chúng tôi bị biến thành gái điếm, những con người đó không còn tin vào điều gì khác ngoài sức và tiền của mình.”

Tôi hẳn muốn xóa sạch những lời nói cuối cùng ấy trên môi khi nhận thấy mình quá bất cẩn. Tất cả chúng ta đều ở đó để kiếm tiền. Sao tôi lại tức giận vô cớ nhỉ? Tôi im lặng và nhìn Aziz, không phải không có chút lo lắng. Anh ấy không trả lời bất cứ điều gì, chỉ ân cần mỉm cười với tôi.

“Tôi cảm ơn cậu đã nói chuyện thật thẳng thắn,” sau cùng anh ấy cũng nói. “Chúng ta giống nhau, dù tôi hơn cậu mười tuổi. Tôi đã đi học ở Anh. Những gì cậu đã trải qua, tôi cũng hiểu.”

Một lát sau, vào buổi tối, tôi thú nhận với anh rằng ngày hạnh phúc duy nhất trong chuỗi ngày xám xịt đời tôi là ngày 11 tháng Chín năm 2001.

“Chúa đã ghé thăm linh hồn của anh, buổi tối hôm ấy Ngài đã biến nó thành một khu vườn, nơi có dòng suối chảy.”

Dù biết Bin Ladens xuất thân từ một gia đình đông con, tôi đã rất ấn tượng khi anh ấy nói với tôi rằng bộ não của ngày 11 tháng Chín là một trong những người anh em họ của ông ta. Kỳ nghỉ kết thúc bình thường. Các cuộc họp công việc và bữa tối trang trọng. Tôi thấy mình không còn phải đối mặt với Aziz nữa, nhưng vài tuần sau, tôi không ngạc nhiên khi anh ấy liên lạc với tôi qua Internet. Chúng tôi không bao giờ nói chuyện về buổi tối đó một lần nào nữa, nhưng thông qua anh ấy - tôi phát hiện ra sau đó - tôi đã được chọn để tới Yemen. Tôi phải chuẩn bị để trở thành một người lính giỏi trong katiba của muhajirin , trung đoàn dân nhập cư. Trước khi tôi rời đi, tôi đã thông báo cho bố mẹ và đồng nghiệp rằng tôi sẽ tham gia một khóa học lặn ở Biển Đỏ.

Tôi chỉ nán lại vài ngày ở Hurghada rồi lên máy bay đến Sanaa.

Từ đó, tôi chuẩn bị trong im lặng. Cuộc sống của tôi được tái cấu trúc vì công lý và trong bí mật. Tôi không bỏ lỡ một khoảnh khắc, lý tưởng của mình như tiếp sức cho tôi và làm tôi hạnh phúc. Tôi cười một mình, như những người anh em của tôi đã tấn công Paris. Người Pháp đã tàn sát chúng tôi, họ hun khói chúng tôi trong những hang động, họ tra tấn chúng tôi, họ bắt chúng tôi khỏi nơi đất mẹ để giam cầm chúng tôi như những nô lệ trong các nhà máy của họ, họ làm quê hương của chúng tôi biến chất, họ không muốn chia sẻ tự do mà người Mỹ đã trao trả năm 1945. Họ cười trong khi họ bẻ xương chúng tôi, họ cười khi họ cưỡng hiếp vợ chúng tôi, giờ đến lượt chúng tôi cười, họ sẽ tiếp tục nếm mùi đau khổ.

Tôi đặt mình trong giai đoạn chuẩn bị tối đa. Tôi chờ đợi mệnh lệnh cho phép giải phóng sự tự do và cơn thịnh nộ của tôi, những người bạn đồng hành duy nhất của tôi. Ở đất nước bệnh hoạn này, thối nát đến tận xương tủy, bị vắt kiệt, tàn tạ, tôi chờ đợi, như một bậc thầy trong việc che giấu mà nay tôi đã trở thành, cho đến khi ánh bình minh của Công lý trỗi dậy.

Tôi đã sẵn sàng.