← Quay lại trang sách

- 4 - THÁNG MƯỜI HAI, NĂM 2003

Trong đêm tiệc diễn ra tại nhà Eric, bầu trời giăng kín mây âm u như sắp sửa có tuyết rơi. Alice cũng đã hy vọng điều đó xảy ra. Không hiểu sao những đứa trẻ có thể dự đoán được chính xác về cơn tuyết đầu mùa. Bây giờ đang là tháng mười hai, giống như hầu hết người dân New England, cô luôn mong nhanh chóng đến tháng hai, trời đang trở nên lạnh buốt khiến cô bất đắc dĩ phải dùng tới cái xẻng cùng đôi giày đáng nguyền rủa này, mùa đông thật sự nhàm chán, không giống như sắc màu hồng phấn và vàng điểm xanh của mùa xuân. Nhưng trong tối nay, tuyết bỗng nhiên thật đáng yêu.

Mỗi năm vợ chồng nhà Eric, Marjorie đều tổ chức một bữa tiệc cho khoa Tâm lý học tại nhà của họ. Chẳng có gì đặc biệt trong đêm tiệc này ngoại trừ vài khoảnh khắc nhỏ khiến Alice có nằm mơ cũng không nghĩ tới: Trong phòng khách có sinh viên và giảng viên ngồi kín các ghế bành và sofa, Eric ngồi thoải mái trên sàn nhà, Kevin và Glen thì vật lộn với trò trao đổi quà Yankee để lấy con búp bê Grinch, rồi cả cuộc tranh giành mấy miếng bánh kem pho-mát huyền thoại của Marty.

Đồng nghiệp của Alice có người tài giỏi, kẻ thì kỳ quặc, người ưa làm từ thiện, kẻ thích chứng tỏ bản thân, người thì cầu tiến, người luôn khiêm tốn... nhưng họ vẫn là một gia đình. Alice cho rằng mình có suy nghĩ này vì mất mẹ và em gái từ sớm. Mà cũng có thể Alice có suy nghĩ này vì càng lớn tuổi người ta có xu hướng tìm kiếm các giá trị tinh thần như sự đồng điệu cảm xúc và nơi nương tựa an toàn. Chỉ là một phần nhỏ, nhưng cũng mang lại nhiều điều hơn cho cuộc sống mỗi người.

Mối quan hệ của họ còn hơn cả những đồng nghiệp bình thường. Niềm vui chiến thắng vì phát hiện mới, được thăng chức hay xuất bản bài nghiên cứu họ đều kỉ niệm cùng nhau, không chỉ vậy, ngay cả dịp đám cưới, sinh con và những thành quả mà con cháu họ đạt được. Họ đi cùng nhau đến các cuộc hội thảo trên khắp thế giới, trải qua bao nhiêu cuộc họp xen vào những kì nghỉ gia đình. Và các gia đình đều như nhau, không phải lúc nào mọi thứ cũng diễn ra tốt đẹp và ngọt ngào. Họ đã giúp đỡ nhau vượt qua những tháng ngày khủng hoảng, khi không nhận được hỗ trợ kinh phí, vượt qua những lúc tự ti đến bất lực, qua bệnh tật và cả những cuộc ly thân.

Nhưng trên hết, họ đồng hành cùng nhau trong nhiệm vụ thấu hiểu về tâm lý của con người, chẳng hạn về cơ chế của hành vi lái xe, sử dụng ngôn ngữ, tình cảm cảm xúc và thậm chí là cảm giác thèm ăn. Trong khi giấc mơ không tưởng của cuộc nghiên cứu này là để thể hiện tài năng và uy danh cá nhân thì mọi người lại đặt trọng tâm là sự nỗ lực cùng hợp tác để tìm ra những thứ có giá trị và đem đến cho thế giới. Chính mong muốn này khiến cuộc sống của họ trở nên kỳ lạ, cạnh tranh, đấu trí và đạt được vinh dự. Sau cùng họ vẫn luôn ở bên nhau.

Bánh kem pho-mát đã hết, Alice chộp lấy chiếc bánh su kem nóng hổi cuối cùng và tìm John. Cô thấy anh đang trò chuyện với Eric và Marjorie ngoài phòng khách. Dan cũng vừa đến.

Dan giới thiệu với mọi người về người vợ mới cưới, cô ấy tên Beth và họ dành cho nhau những cái bắt tay để chúc mừng thật nồng nhiệt. Marjorie hiếu khách đang giữ áo khoác cho hai vợ chồng họ. Dan trông khá chỉnh tề trong bộ comple thắt cravat, còn Beth diện một chiếc váy dài màu đỏ duyên dáng. Có vẻ như đây là lần đầu tiên họ đi cùng nhau đến dự một bữa tiệc nên hai người khá quan tâm về vấn đề trang phục và còn đến muộn nữa. Eric đưa đồ uống cho họ.

“Tôi cũng muốn một ly” – Alice nói, ly vang trên tay cô vẫn còn hơn một nửa.

John trò chuyện với Beth, anh hỏi cô thích một cuộc sống hôn nhân như thế nào. Dù chưa từng gặp mặt, nhưng Alice cũng biết một chút về Beth thông qua Dan. Khi Dan được nhận vào Harvard thì hai người họ về ở chung với nhau. Beth sống ở Atlanta, điều thú vị là cô gái ấy chấp nhận chuyện yêu xa và tin vào lời hứa hôn nhân sau khi tốt nghiệp của Dan. Nhưng ba năm sau, Dan vô tư nói rằng việc học của cậu có thể sẽ kéo dài đến sáu, bảy năm, vậy mà mối tình vẫn cứ tiếp diễn. Họ vừa cưới nhau vào tháng trước.

Alice cần dùng nhà vệ sinh. Trên đường đi, cô dừng lại ở một hành lang dài nối giữa khu nhà cũ và khu nhà mới, uống cạn ly rượu và ăn nốt chiếc bánh su, ngắm nhìn gương mặt với nụ cười hạnh phúc của những đứa trẻ nhà Eric qua các bức tranh trên tường. Sau khi dùng xong phòng vệ sinh, cô đi trong vô định rồi dừng lại ở phòng bếp, tự rót cho mình một ly vang, và tách mình khỏi cuộc trò chuyện huyên náo giữa những bà vợ của các giảng viên.

Các bà vợ sóng vai nhau cùng tiến về nhà bếp, họ thân với nhau đến mức biết về các nhân vật trong câu chuyện của nhau, cùng khen ngợi và trêu chọc nhau, cười đùa thoải mái. Họ cũng cùng nhau mua sắm, cùng tham gia hoạt động và câu lạc bộ. Còn Alice thân với những ông chồng của họ, điều đó đẩy cô xa cách với họ. Cô chủ yếu ngồi uống rượu và lắng nghe, gật đầu và mỉm cười theo, hoàn toàn không bận tâm, giống như việc chạy trên máy chạy bộ thay vì trên một con đường thực tế.

Cô rót rượu cho đầy ly rồi lén rời khỏi nhà bếp, ra đến phòng khách thì thấy John vẫn đang nói chuyện với Eric, Dan và cô gái mặc váy đỏ. Alice đứng cạnh chiếc đàn piano của Eric, cô đưa ngón tay nhấn xuống phím đàn trong khi lắng nghe họ trò chuyện. Mỗi năm, Alice đều mong sẽ có ai chơi đàn, nhưng chẳng có ai làm thế cả. Cô và Anne đã học đàn nhiều năm, nhưng giờ cô chỉ nhớ “Baby Elephant Walk” và “Turkey in the Straw” mà không có bản nhạc và chỉ chơi bằng tay phải. Có lẽ người phụ nữ trong chiếc váy đỏ lạ thường kia sẽ biết chơi.

Tại một khoảng lặng của cuộc trò chuyện, ánh mắt của Alice và người phụ nữ váy đỏ vô tình chạm nhau.

“Xin thứ lỗi, tôi là Alice Howland. Tôi không nghĩ là chúng ta đã từng gặp nhau rồi.”

Người phụ nữ có vẻ căng thẳng, nhìn Dan trước khi trả lời. “Tôi tên Beth.”

Cô ấy trông trẻ như một sinh viên đại học. Cô nhớ Marty đã nói rằng anh sẽ thuê một hậu tiến sĩ mới, một phụ nữ. Và đến tháng mười hai thì cô cũng phải tìm bằng được một người để hỗ trợ cô nghiên cứu, cho dù đó chỉ là sinh viên năm nhất.

“Cô có phải là hậu tiến sĩ mới của Marty?” – Alice hỏi.

Người phụ nữ nhìn Dan lần nữa. “Tôi là vợ của Dan.”

“Ôi, thật là vui khi cuối cùng cũng được gặp cô, mừng hạnh phúc hai người!”

Không một ai lên tiếng. Eric nhìn chằm chằm vào mắt John, liếc qua ly rượu trên tay Alice rồi lại nhìn John đầy ẩn ý. Alice không hiểu hành động đó của Eric là ý gì.

“Có chuyện gì vậy?” – Alice hỏi.

“Em biết không em yêu, anh nghĩ là bây giờ đã trễ rồi, mai anh còn phải dậy sớm. Em thấy thế nào nếu giờ chúng ta ra về?” – John hỏi.

Khi họ rời khỏi nhà Eric, cô định hỏi John về ánh mắt liếc nhìn khó hiểu kia của Eric, nhưng cô bị phân tâm bởi vẻ đẹp dịu dàng của những bông tuyết đã rơi thưa đi khi họ vào bên trong xe, và cô quên ngay.

BA NGÀY TRƯỚC LỄ GIÁNG SINH, ALICE ngồi trong phòng đợi của khoa Thần kinh tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts ở Boston. Cô vờ như đang đọc quyển Tạp chí Y khoa, nhưng thực ra cô đang quan sát những người khác. Họ đều đi theo cặp. Một phụ nữ khoảng 70 tuổi ngồi bên cạnh bà cụ tầm 90 tuổi, có thể đó là hai mẹ con. Một phụ nữ khác với mái tóc dày, đen một cách không tự nhiên, trên người đeo nhiều trang sức bằng vàng đang nói chuyện lớn tiếng và ề à bằng chất giọng vùng Boston, kế bên là cha cô ta, ông ấy đang ngồi trên xe lăn và không bao giờ rời mắt khỏi đôi giày trắng tinh đang đi dưới chân. Còn có một người phụ nữ với mái tóc bạc, người trông xương xẩu đang lật nhanh các trang tạp chí, Alice cá là cô ta chẳng thể đọc được bất cứ điều gì, bên cạnh cô ta là gã đàn ông có thân hình quá khổ với mái tóc hợp thời đang nhịp nhịp bàn tay phải. Có lẽ họ là một cặp vợ chồng.

Alice không biết phải chờ đến bao giờ mới được gọi tên. Ông bác sĩ có khuôn mặt nhẵn nhụi và mái đầu hói kia là Davis. Ông ấy đeo kính gọng màu đen, mặc chiếc áo blouse trắng, khuy không cài hết. Trông ông ta có vẻ mập hơn lúc trước, phần thân dưới sồ sề như chực thoát ra khỏi chiếc áo, nhắc Alice nhớ tới lời nhận xét của Tom về sự thiếu chú ý đến sức khỏe của bản thân các bác sĩ. Anh ngồi sau bàn làm việc và mời cô ngồi đối diện anh.

“Nào Alice, nói tôi biết đã có chuyện gì xảy ra.”

“Tôi đang gặp nhiều vấn đề liên quan đến khả năng ghi nhớ và ở độ tuổi 55 thì điều này không bình thường chút nào. Tôi bị quên nội dung bài giảng, không nhớ những cuộc trò chuyện, tôi phải đặt ‘lớp Nhận thức’ lên danh sách việc cần làm nếu không tôi sẽ quên đi dạy, tôi hoàn toàn quên đến sân bay cho buổi hội nghị ở Chicago và lỡ chuyến bay. Trong vài phút ở quảng trường Harvard, tôi cũng không biết nơi mình đang đứng là đâu dù tôi đi qua đó mỗi ngày.”

“Chuyện như thế xảy ra bao lâu rồi?”

“Từ tháng chín, có lẽ là trong dịp hè.”

“Alice, cô có đến đây cùng với ai khác không?”

“Không.”

“Được rồi. Trong thời gian tới, cô phải thường xuyên đi cùng một người thân hoặc cần một ai đó luôn ở bên cạnh. Cô đang gặp vấn đề về trí nhớ nên những thông tin cô cung cấp có thể chưa hoàn toàn chính xác.”

Thật xấu hổ, Alice thấy mình giống như một đứa con nít. Cái cụm từ “trong thời gian tới” làm cô bối rối, ám ảnh cô nhiều đến mức giống như chiếc vòi nước cứ rỉ từng giọt không ngừng.

“Được thôi” – cô đáp.

“Cô có dùng bất kỳ loại thuốc nào không?”

“Không, chỉ có vitamin tổng hợp thôi.”

“Có dùng thuốc ngủ, thuốc giảm cân hay bất kỳ loại nào khác không?”

“Không.”

“Cô có uống nhiều rượu không?”

“Không nhiều lắm. Một hoặc hai ly cho bữa tối.”

“Cô có ăn chay không?”

“Không.”

“Cô có từng bị chấn thương ở đầu không?”

“Không.”

“Cô có thực hiện cuộc phẫu thuật nào chưa?”

“Chưa hề.”

“Giấc ngủ của cô thì sao?”

“Hoàn toàn ổn.”

“Cô có từng bị trầm cảm chưa?”

“Không, kể từ thời niên thiếu.”

“Mức độ áp lực của cô thế nào?”

“Chuyện thường thôi, tôi chịu được áp lực trong công việc.”

“Nói tôi nghe về bố mẹ cô. Sức khỏe của họ thế nào?”

“Mẹ và chị gái tôi chết trong một tai nạn xe hơi hồi tôi mười tám tuổi. Cha tôi chết vì bệnh gan vào năm ngoái.”

“Viêm gan?”

“Xơ gan. Ông là một kẻ nghiện rượu.”

“Ông ấy bao nhiêu tuổi?”

“Bảy mươi mốt.”

“Ông ấy có bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến sức khỏe không?”

“Tôi thật sự không biết. Nhiều năm liền tôi không gặp mặt ông ấy.”

Và khi bà qua đời, ông trở nên suy sụp, nghiện rượu.

“Còn những thành viên khác thì sao?”

Cô thuật lại mớ kiến thức hạn chế về lịch sử bệnh tật của đại gia đình mình.

“Được rồi. Tôi sẽ đưa ra cho cô một cái tên và địa chỉ, cô hãy nhắc lại cho tôi nghe. Sau đó chúng ta cùng làm một vài bài kiểm tra khác rồi cuối cùng cô nhắc lại tên và địa chỉ một lần nữa. Cô nghe kỹ nhé, John Black, số nhà 42 đường West, Brighton. Cô nhắc lại được không?”

Alice lặp lại tên và địa chỉ.

“Cô bao nhiêu tuổi?”

“Năm mươi.”

“Hôm nay là ngày mấy?”

“23 tháng Mười Hai, năm 2003.”

“Bây giờ là mùa gì?”

“Mùa đông.”

“Cô đang ở đâu?”

“Tầng tám, khoa Thần kinh tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts.”

“Cô có thể đọc tên những con đường ở gần đây chứ?”

“Cambridge, Fruit, Storrow Drive.”

“Được rồi, giờ là lúc nào?”

“Gần trưa.”

“Bắt đầu từ tháng Mười Hai, hãy đọc lùi tên tháng.” Cô trả lời được.

“Đếm ngược từ một trăm, mỗi số cách nhau sáu đơn vị.” Ông bảo cô dừng lại ở con số bảy mươi sáu.

“Cho tôi biết tên những vật này.”

Ông đưa cho cô xấp thẻ có hình vẽ chì.

“Cái võng, bộ lông, chìa khóa, cái ghế, cây xương rồng, găng tay.”

“Được rồi, trước khi nhìn ra cửa sổ, cô hãy chạm má phải bằng tay trái.”

Cô làm theo lời vị bác sĩ.

“Cô có thể viết một câu về thời tiết hôm nay trên tờ giấy này không?”

Cô viết: “Đó là một buổi sáng mùa đông đầy nắng nhưng se lạnh.”

“Bây giờ, vẽ một đồng hồ chỉ bốn giờ kém hai mươi.”

Cô vẽ ra một chiếc đồng hồ như yêu cầu.

“Và sao chép họa tiết này.”

Ông cho cô xem hình ảnh của hai ngũ giác giao nhau.

Cô sao chép chúng.

“Được rồi, Alice, bỏ chúng lên bàn đi. Chúng ta sẽ tiến hành một bài kiểm tra thần kinh.”

Alice dõi theo chiếc đèn bút đang rọi vào mắt mình, cô gõ nhanh các ngón cái và ngón trỏ với nhau, bước đi bằng gót chân cho đến những ngón chân theo một đường thẳng. Cô làm mọi thứ dễ dàng và nhanh chóng.

“Được rồi, cho tôi biết tên và địa chỉ mà tôi đã nói lúc trước.”

“John Black...”

Cô dừng lại và quan sát gương mặt của bác sĩ Davis. Cô không thể nhớ được địa chỉ. Điều này là sao? Có lẽ cô đã không đủ tập trung.

“Ở Brighton, nhưng tôi không tài nào nhớ tên đường.”

“Được rồi, là số nhà 24, 28, 42 hay 48?”

Cô không biết.

“Đoán thử xem.”

“48.”

“Đường North, South, East hay West?”

“Đường South?”

Khuôn mặt và cử chỉ của ông không cho biết cô đoán đúng hay sai, nhưng nếu cô đoán lại lần nữa, hẳn nó sẽ sai.

“Được rồi, Alice, chúng ta phải xét nghiệm máu và MRI của cô gần đây. Tôi muốn cô thử máu và chọc dò tủy sống. Khoảng bốn đến năm tuần nữa cô hãy trở lại đây, sẽ có buổi hẹn kiểm tra thần kinh trước khi gặp tôi.”

“Anh nghĩ chuyện gì đang xảy ra? Liệu có phải chỉ là đãng trí thông thường không?”

“Tôi không nghĩ thế đâu Alice, nhưng chúng ta cần phải xem xét thêm.”

Cô nhìn thẳng vào mắt ông ấy. Một đồng nghiệp của Alice đã từng nói rằng nếu nhìn chằm chằm vào mắt người khác hơn sáu giây mà họ không nhìn ra nơi khác hay nhấp nháy mắt thì chứng tỏ họ có ham muốn tình dục hoặc muốn giết người. Theo lẽ thì cô không tin điều này, nhưng nghe cũng khá thú vị nên cô đã thử kiểm tra với bạn bè và cả người không quen biết. Hết sức ngạc nhiên, ngoài John ra thì mọi người đều nhìn đi nơi khác trước khi sáu giây trôi qua.

Bác sĩ Davis nhìn xuống bàn sau bốn giây. Tức là ông ta không muốn giết chết hay xé quần áo cô, nhưng điều cô lo chính là một điều gì khác không nằm trong hai điều trên. Cô sẽ phải thực hiện nội soi, làm xét nghiệm, chụp quét cắt lớp và được kiểm tra, nhưng cô đoán ông không cần phải xem xét gì thêm. Cô đã kể lại câu chuyện của mình, và cô không tài nào nhớ được địa chỉ của John Black. Ông ta hẳn đã biết chính xác chuyện gì đang diễn ra.

ALICE ĐÓN BUỔI SÁNG Giáng Sinh trên ghế dài, nhâm nhi một tách trà và xem album ảnh. Qua nhiều năm, cuốn album mỗi lúc một dày lên. Cô luôn cẩn trọng lưu giữ từng khoảnh khắc diễn ra trong đời mình, nhưng cô không dán tem ghi chú bức ảnh nào cả. Điều đó không quan trọng vì cô vẫn biết hết về chúng.

Đây là Lydia hồi hai tuổi; Tom lúc sáu tuổi; và Anna khi lên bảy tuổi, bức này chụp ở bãi biển Hardings trong kỳ nghỉ hè đầu tiên của họ tại nhà Cape. Anna chơi ở một đội bóng đá thanh niên trên sân bóng Pequossette. Cô và John ngồi trên bãi biển Seven Mile ở đảo Grand Cayman.

Cô không chỉ nhớ tuổi mỗi người trong ảnh mà cô còn có thể giải thích từng bức ảnh một cách chi tiết nhất. Có những bức ảnh mà người ngoài chỉ đoán được chúng chụp ở đâu, gồm những ai, nhưng cô thì lại biết tường tận cả những góc khuất không hiện lên trong ảnh.

Lydia trong buổi khiêu vũ đầu tiên, con bé mặc một bộ diễn phục màu xanh phấn, trông khá ngứa ngáy khó chịu. Lúc này là ở nhiệm kỳ trước, Anna học trung học và xin nói thêm là Tom đang tương tư một cô gái trong đội bóng chày, còn John ở Bethesda, đang tận hưởng kì nghỉ phép năm.

Điểm duy nhất làm khó cô chính là những bức ảnh thời bé của Anna và Lydia, chúng đều có khuôn mặt bầu bĩnh, trông hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, cô có thể tìm thấy chút chi tiết để nhận ra chúng. Trông bộ ria mép cong đặc trưng của John thì có thể bức ảnh này chụp vào năm 1970. Đứa trẻ anh ấy bế hẳn là Anna.

“John, đây là Anna hay Lydia?” – Cô hỏi, đưa tấm ảnh đứa trẻ cho John xem.

Anh rời mắt khỏi cuốn tạp chí, chỉnh cặp kính và nhìn sang.

“Tom hả?”

“Anh yêu, cô bé mặc bộ áo liền quần màu hồng cơ mà. Đó là Lydia.”

Cô kiểm tra ngày chụp của chiếc máy Kodak. 29 tháng Năm, 1982. Lydia.

“Ừ nhỉ.”

Anh đẩy cặp kính của mình lên sống mũi và tiếp tục đọc.

“John, em nghĩ mình nên nói chuyện với nhau về những lớp học diễn xuất của Lydia.”

Anh nhìn lên, đánh dấu trang đang đọc dở rồi đặt quyển tạp chí lên bàn, gấp kính lại và ngả người tựa vào lưng ghế. Anh biết việc này sẽ khá mất thời gian.

“Em nói đi.”

“Em nghĩ chúng ta không nên ủng hộ mọi thứ nó muốn, và em rất không đồng tình với việc anh lén lút trả tiền học phí cho nó sau lưng em.”

“Anh xin lỗi, em đã đúng, anh định nói với em, nhưng vì anh bận quá nên quên mất, em có thể hiểu được mà. Mà anh không đồng tình với em chuyện này, anh vẫn sẽ làm theo cách của anh. Chúng ta không cùng quan điểm.”

“Hai chuyện này không liên quan.”

“Có liên quan đấy. Em không thích những gì con nó chọn.”

“Đây không phải trong phim. Nó không học đại học. Cánh cửa tuổi trẻ của nó sẽ nhanh chóng đóng lại, và John, anh đang khiến điều đó trở nên dễ dàng hơn.”

“Nó không muốn học đại học.”

“Em nghĩ nó chỉ muốn nổi loạn để chống lại chúng ta.”

“Anh không nghĩ những gì con bé làm là để chống lại chúng ta hay điều chúng ta muốn hoặc không muốn ở nó.”

“Em chỉ muốn nó tốt hơn.”

“Nó làm việc chăm chỉ, nó hứng thú và nghiêm túc với những gì đang làm, nó hạnh phúc. Đó là tất cả những gì chúng ta muốn ở nó.”

“Điều chúng ta cần làm là phải cho lũ trẻ biết về cuộc sống này. Em thật sự lo rằng nó sẽ bỏ lỡ những thứ quan trọng. Tiếp xúc với nhiều loại người khác nhau, khác về cách nghĩ, những cơ hội, thử thách... Chúng ta đều gặp được ở trong trường đại học.”

“Nó đều gặp những thứ ấy rồi.”

“Chẳng giống nhau chút nào.”

“Vậy thì khác nhau. Anh nghĩ việc trả học phí cho nó là điều hợp lý. Anh xin lỗi vì không nói ra, nhưng thật khó để nói với em chuyện này. Em thậm chí chẳng lung lay.”

“Anh cũng vậy.”

Anh liếc nhìn đồng hồ ở trên lò sưởi, với tay lấy kính rồi cài lên đầu.

“Anh sẽ tới phòng thí nghiệm khoảng một tiếng, sau đó anh sẽ đón và đưa nó ra sân bay. Em có cần gì khi anh ra ngoài không?” – Anh hỏi khi đã đứng lên.

“Không.”

Họ không nhìn nhau.

“Con bé sẽ ổn thôi, Ali, đừng lo nữa.”

Cô nhíu mày lại nhưng không nói bất kỳ điều gì. Cô có thể nói gì được nữa? Hai cha con thông đồng với nhau từ trước và đây là kết quả. John đã lập luận mọi thứ rất logic theo cách nhẹ nhàng nhất, luôn luôn vào vai một phụ huynh được yêu thích, không bao giờ thuyết phục Alice chuyển sang phe kia. Và không có gì mà cô nói ra có thể lay chuyển anh.

John rời khỏi nhà. Cô thả lỏng cơ thể, quay lại với những tấm ảnh. Những đứa con đáng yêu của cô từ khi còn là trẻ sơ sinh, khi mới biết đi, khi dậy thì. Thời gian đã đi đâu mất rồi? Cô giữ bức ảnh của Lydia mà John vừa đoán là Tom. Cô cảm thấy một niềm tin mới và yên tâm về trí nhớ mạnh mẽ của mình. Nhưng tất nhiên, những bức ảnh này chỉ mở ra cánh cửa của một đoạn nào đó trong mớ ký ức xa xôi.

Địa chỉ của John Black thì lại thuộc về kí ức gần đây. Sự chú ý, quá trình nhắc lại, lặp lại chi tiết hoặc cảm xúc trực tiếp là những điều cần thiết để giúp một thông tin trở thành ký ức lâu dài, nếu không thì nó sẽ nhanh chóng bị mờ nhạt và rơi vào lãng quên. Việc tập trung vào các câu hỏi và chỉ dẫn của bác sĩ Davis đã làm cô phân tâm, ngăn cô ghi nhớ hay lặp lại địa chỉ. Dù cái tên đó khiến cô thấy chút sợ hãi và giận dữ, nhưng chuyện hư cấu về John Black hoàn toàn không có ý nghĩa gì với cô trong phòng khám của bác sĩ Davis. Khi rơi vào những hoàn cảnh như thế này, não bộ ở mức bình thường sẽ khá dễ dàng quên đi. Và một lần nữa, bộ não của cô không hề tầm thường.

Alice nhận thư qua khe cửa trước và nảy ra một ý tưởng. Cô nhìn kỹ từng thứ trên tay: tấm thiệp có hình một đứa bé đội mũ Giáng Sinh được gửi từ một cựu sinh viên, tờ quảng cáo từ câu lạc bộ thể dục thẩm mỹ, hóa đơn điện thoại, hóa đơn tiền ga, còn một catalog L.L.Bean. Cô trở lại ghế, uống trà, đặt những quyển album lên kệ và ngồi yên. Tiếng đồng hồ hẹn giờ và tiếng nước rò rỉ từ những bộ tản nhiệt là những âm thanh duy nhất trong nhà. Cô nhìn chằm chằm vào đồng hồ. Năm phút đã trôi qua. Đủ lâu.

Cô nói to mà không nhìn vào mớ thư từ: “Tấm thiệp hình em bé đội mũ Giáng Sinh, thông tin thành viên phòng thể hình, hóa đơn điện thoại, hóa đơn gas, catalog L.L.Bean.”

Dễ như ăn bánh. Nhưng công bằng mà nói thì thời gian giữa việc trình bày địa chỉ của John Black và khi được yêu cầu thuật lại phải dài hơn năm phút. Cô cần một khoảng thời gian trì hoãn dài hơn.

Cô lấy từ điển trên kệ và đặt ra hai quy tắc để chọn một từ. Nó phải ít phổ biến, một từ mà cô không sử dụng hằng ngày, và nó phải là một từ cô đã biết. Cô đang thử trí nhớ của mình, không phải học thứ gì mới. Cô lật một trang tùy ý của từ điển và đặt ngón tay mình xuống từ “điên loạn”. Cô viết nó lên một mảnh giấy, gấp lại, bỏ vào túi quần và cài bộ đếm thời gian trên lò vi sóng là mười lăm phút.

Khi Lydia còn nhỏ, một trong những cuốn sách mà con bé yêu thích có tên là Hippos Go Berserk! Alice đi chuẩn bị cho bữa tối Giáng Sinh. Bộ đếm thời gian phát ra tiếng bíp.

“Điên loạn” – cô không hề do dự hay cần sự trợ giúp của mảnh giấy.

Cô tiếp tục chơi trò chơi này suốt cả ngày, tăng lên ba từ cần nhớ và kéo dài thời gian thử thách tới tận bốn mươi lăm phút. Mặc dù mức độ khó tăng lên, thêm vào sự phân tâm của việc chuẩn bị bữa tối, cô vẫn không mắc lỗi nào. Ống nghe, thiên niên kỷ, con nhím. Cô làm món ricotta raviolis với nước sốt đỏ. Cực âm, quả lựu, lưới mắt cáo. Cô trộn salad vào và ướp rau củ. Kim ngư thảo, phim tài liệu, tan biến. Cô cho thịt vào lò nướng và dọn bàn ăn tối.

Anna, Charlie, Tom và John ngồi ở phòng khách. Alice có thể nghe tiếng Anna và John. Từ dưới bếp, cô không đoán được chủ đề, nhưng cô dám chắc đó là một cuộc tranh cãi bởi giọng nhấn mạnh và âm lượng qua lại. Có thể về chính trị. Charlie và Tom đều quan tâm đến nó.

Lydia khuấy nồi rượu táo trên bếp và nói về lớp học diễn xuất. Giữa việc tập trung vào bữa tối, những từ cô phải ghi nhớ, và Lydia, Alice đã không còn tâm trí nào để phản đối hay tranh cãi. Không hề bị ai cắt ngang, Lydia phát biểu một bài độc thoại miễn phí và đầy đam mê về nghề của mình, mặc dù Alice có khuynh hướng chống lại nó, cô cũng không cưỡng lại được sự quan tâm.

“Sau các biểu tượng, ta tiếp tục đặt nghi vấn cho Elijah, ‘Sao là đêm nay chứ không phải đêm khác?’” – Lydia nói.

Bộ đếm thời gian kêu lên. Lydia biết ý bước sang một bên, còn Alice lén nhìn vào lò nướng. Cô chờ đợi một lời giải thích cho việc tại sao lò nướng lại báo dừng khi thịt chưa đủ thời gian để chín cho đến khi khuôn mặt cô trở nên đỏ bừng. Ồ. Đó là thời gian để cô lặp lại ba từ trong túi. Trống tambourine, con rắn...

“Ta sẽ không bao giờ sống một cuộc đời như đã sắp đặt trước, các nguyên tắc luôn được lập ra và rồi bị phá vỡ” – Lydia nói.

“Mẹ ơi, đồ khui rượu ở đâu vậy?” – Anna hét lên từ phòng khách.

Alice đấu tranh nội tâm để phớt lờ tiếng kêu la của con gái, đầu óc cô đã được tập luyện để nghe tất cả các âm thanh có trên đời này, và cả tiếng nói bên trong mình, lặp đi lặp lại hai từ đấy như một câu thần chú.

Trống tambourine, con rắn, trống tambourine, con rắn, trống tambourine, con rắn.

“Mẹ à?” – Anna hỏi.

“Mẹ không biết nó ở đâu, Anna! Mẹ đang bận, con tự tìm xem.”

Trống tambourine, con rắn, trống tambourine, con rắn, trống tambourine, con rắn.

“Nó luôn tiếp tục sống khi mẹ nắm bắt được nó. Điều khiến cho nhân vật của con tiếp tục tồn tại và điều gì sẽ đến với con nếu con không nhập tâm vào vai diễn?” – Lydia nói.

“Lydia, làm ơn, mẹ không muốn nghe về mấy thứ đó vào lúc này” – Alice ngắt lời, thái dương đẫm mồ hôi.

“Được thôi” – Lydia nói. Cô quay thẳng về bếp và khuấy mạnh nồi rượu, rõ ràng cô đang bị tổn thương.

Trống tambourine, con rắn.

“Con vẫn không thấy nó!” – Anna hét lên.

“Con tìm giúp chị ấy đây” – Lydia nói.

La bàn! Trống tambourine, con rắn, la bàn.

Thở phào nhẹ nhõm, Alice lấy nguyên liệu cho bánh pudding chocolate trắng và đặt chúng trên bàn bếp – vanilla, nửa ly kem tươi đặc, sữa, đường, chocolate trắng, một ổ bánh mì challah, và nửa tá trứng. Một chục quả trứng? Nếu các mảnh giấy ghi chú về công thức nấu ăn của mẹ cô còn tồn tại thì Alice đang tự hỏi chúng ở đâu. Cô đã không đụng đến nó nhiều năm. Đó là một công thức đơn giản, thậm chí ngon hơn bánh pho-mát của Marty, và cô đã làm nó vào mỗi đêm Giáng Sinh từ khi còn là đứa trẻ. Cần bao nhiêu trứng? Nó phải hơn sáu, hoặc bà chỉ dùng một hộp. Có thể là bảy, tám, hay chín?

Cô cố bỏ qua chuyện mấy quả trứng trong một lúc, nhưng những thành phần khác trông như tiếng nước ngoài. Mẹ cô sử dụng hết kem hay chỉ đong ra một ít? Bao nhiêu đường? Bà ấy kết hợp mọi thứ cùng lúc hay theo một trình tự cụ thể. Bà đã dùng loại chảo nào? Nướng ở nhiệt độ bao nhiêu và trong bao lâu? Không có khả năng nào đúng. Không có thông tin nào ở đây.

Cái quái quỷ gì đang diễn ra với tôi thế?

Cô xem xét lại những quả trứng. Vẫn không có gì. Cô ghét thứ trứng chết tiệt này. Cô cầm một quả trong tay và ném nó mạnh nhất có thể vào bồn rửa chén. Từng quả một, cô đập vỡ hết chúng. Điều này khiến cô tạm thấy thoải mái, nhưng vẫn chưa đủ. Cô cần đập vỡ thứ gì khác, thứ gì đó cần nhiều lực hơn, thứ gì đó làm cô kiệt sức. Cô nhìn quanh nhà bếp. Đôi mắt cô đầy tức giận và điên cuồng khi thấy Lydia ở ngưỡng cửa.

“Mẹ, mẹ đang làm gì vậy?”

Vụ thảm sát không chỉ giới hạn ở bồn rửa. Vỏ trứng và lòng đỏ bắn tung toé khắp tường và bàn bếp, mặt tủ loang đầy vệt lòng trắng.

“Những quả trứng đã hết hạn. Không có bánh năm nay.”

“Chà, chúng ta phải có bánh chứ, đây là đêm Giáng Sinh mà.”

“Ừ, nhưng không còn trứng nữa, và mẹ quá mệt với cái nhà bếp nóng nực này.”

“Con sẽ đến cửa hàng. Mẹ cứ ra phòng khách nghỉ ngơi, con sẽ làm bánh.”

Alice bước ra phòng khách, hơi chếnh choáng nhưng không còn tràn ngập sự giận dữ, cũng không rõ mình đang cảm thấy bị cướp đoạt hay biết ơn. John, Tom, Anna và Charlie đều đang ngồi trò chuyện, cầm ly vang đỏ. Rõ ràng, ai nấy đều đã tìm thấy sự cởi mở. Với áo khoác và mũ trong tay, Lydia ló đầu vào phòng.

“Mẹ cần dùng bao nhiêu quả trứng vậy?”