← Quay lại trang sách

- 5 - THÁNG MỘT, NĂM 2004

Cuối cùng thì cô cũng tìm được lý do chính đáng để hủy buổi hẹn với một nhà tâm lý học thần kinh và bác sĩ Davis vào ngày 19 tháng Một.

Sau khi kết thúc kì nghỉ đông, tuần thi học kì và bài thi cuối kì của lớp Ngôn ngữ học do Alice giảng dạy cũng được xếp lịch thi vào sáng hôm đó. Sự hiện diện của cô dù chẳng mấy quan trọng, nhưng cô thấy hứng thú với ý nghĩ rằng lại một năm nữa qua đi và đây là dịp để cô ngắm nhìn tất cả những sinh viên đã theo học từ buổi đầu đến cuối khóa học này. Với đôi chút miễn cưỡng, cô đã cử một trợ giảng giám sát kỳ thi. Lý do hợp lý hơn là 32 năm về trước, mẹ và em gái cô đã mất vào ngày mười chín tháng Một. Cô không cho rằng mình mê tín như John, nhưng cô chưa bao giờ nhận được tin tốt lành gì vào ngày đó.

Cô đã nhờ lễ tân xếp lịch cho một ngày hẹn khác nhưng không thể, và nếu muốn dời lại thì cô buộc phải đợi tới bốn tuần sau. Vậy nên cô không thể hủy hẹn. Cái ý nghĩ chờ đợi thêm một tháng nữa thật sự không hấp dẫn chút nào.

Cô tưởng tượng ra chuyện khi các sinh viên của cô trở lại trường, chúng sẽ vô cùng lo lắng không biết kì này sẽ ra những câu hỏi gì, rồi vội vàng nhồi nhét vào đầu lượng kiến thức của suốt một học kì trong thời gian ngắn, hy vọng điều đó sẽ không khiến chúng gặp thất bại. Cô hiểu rất rõ chúng đang cảm thấy thế nào. Hầu hết các bài kiểm tra về tâm lý thần kinh được ra vào sáng hôm đó sẽ là: hiệu ứng Stroop, ma trận Raven, kỹ thuật Luria Mental Rotation, trắc nghiệm gọi tên Boston, trắc nghiệm hình ảnh WAIS-R, trí nhớ thị giác Benton, trắc nghiệm nhớ câu chuyện NYU, cô biết rõ điều đó. Bài thi được thiết kế như vậy để kiểm tra khả năng ngôn ngữ, trí nhớ và quá trình lập luận của sinh viên, dĩ nhiên không có chỗ cho những bộ não yếu kém. Thực ra trước kia cô cũng đã làm qua những bài thi như vậy nhiều lần, nhưng ở vai trò là giáo viên hướng dẫn sinh viên hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Nhưng hôm nay cô không phải là người giám sát, cô là đối tượng bị thử nghiệm.

Việc ghi chép, nhớ lại, sắp xếp và điền thông tin mất hết hai giờ mới xong. Cũng như các sinh viên mà cô đã tưởng tượng, cô cảm thấy nhẹ nhõm và khá tự tin trong chuyện này. Được nhà tâm lý học thần kinh dẫn đường, Alice bước vào văn phòng bác sĩ Davis và ngồi ở một trong hai chiếc ghế được xếp cạnh nhau, đối diện với ông. Davis nhìn chiếc ghế trống bên cạnh cô và thở dài thất vọng. Dù ông chưa nói bất cứ lời nào thì cô cũng biết mình đang gặp rắc rối.

“Alice, không phải lần trước ta đã thống nhất rằng cô sẽ tới đây với ai đó sao?”

“Phải.”

“Được rồi, yêu cầu của bệnh viện này là mỗi bệnh nhân phải đến cùng thân nhân hoặc bạn bè của họ. Tôi không thể điều trị cho cô đúng cách trừ khi tôi biết chính xác chuyện gì đang diễn ra, và tôi không chắc mình có được thông tin gì khi họ không có mặt ở đây cùng cô. Lần tới tôi sẽ không thông cảm nữa đâu Alice, được chứ?”

“Tôi hiểu rồi.”

Lần tới. Mọi sự nhẹ nhõm và tự tin mà cô tự đánh giá mình trong các bài kiểm tra thần kinh đều hoàn toàn bốc hơi.

“Hiện tại tôi đã có kết quả kiểm tra, nên chúng ta có thể thông qua hết. Tôi không thấy điều gì bất thường trong kiểm tra MRI của cô. Không bệnh mạch máu não, không có bằng chứng của đột quỵ, không bị tràn máu não hay các bệnh phổ biến nào khác. Tất cả mọi thứ đều có vẻ ổn. Cả xét nghiệm máu và chọc dò tủy sống đều cho kết quả âm tính. Điều tích cực ở đây là chúng ta có thể tìm thấy mọi bệnh lý phù hợp để giải thích cho những triệu chứng của cô. Thế là, chúng ta đã rõ cô không nhiễm HIV, ung thư, thiếu vitamin, bệnh ti thể, hay một số bệnh hiếm khác.”

Phần trình bày của ông rất trơn tru, hẳn không phải là lần đầu ông nói về vấn đề thế này. Những “bệnh mà cô mắc” đã đến lúc kết thúc. Cô gật đầu, ra hiệu rằng ông cứ tiếp tục.

“Cô đạt 99% trong việc hoàn thành các lý luận trừu tượng, phân tích không gian và văn phong trôi chảy. Nhưng không may, đây là những gì tôi thấy. Cô có một sự suy giảm trí nhớ không tương xứng với độ tuổi, và nó đã suy giảm đáng kể so với trước đây về mặt chức năng. Tôi biết đây là do những vấn đề cá nhân cô đã gặp phải và qua những mô tả của cô, cũng có thể là do những tác động từ bên ngoài đến cuộc sống công việc. Tôi cũng đã kiểm chứng điều này khi cô không thể nói địa chỉ mà tôi yêu cầu ở lần khám trước. Và mặc dù cô xuất sắc ở mọi lĩnh vực nhận thức thì hôm nay, cô đã cho thấy rất nhiều bất ổn ở hai trong số những nhiệm vụ liên quan đến trí nhớ gần đây. Thực tế là cô chỉ đạt 60% trong bài kiểm tra này.”

“Khi tôi xâu chuỗi tất cả các thông tin này với nhau, Alice, những gì tôi có thể nói cho cô biết là cô có khả năng bị chứng mất trí Alzheimer.”

Chứng mất trí Alzheimer.

Những từ đó như cơn bão ập xuống cô. Chính xác thì ông ta vừa nói cái quái gì thế? Cô lặp lại từng lời của ông trong đầu.

Có khả năng. Đúng, chỉ là “có khả năng” thôi. Điều này cho cô ý chí để hít sâu vào, chớp lấy cơ hội để phản biện lại.

“Vậy thì, ‘có khả năng’ cũng tức là có thể tôi không mắc phải căn bệnh đó.”

“Không, chúng tôi sử dụng cụm từ “có khả năng” là vì chẩn đoán xác định Alzheimer hiện tại cần phải kiểm tra mô học của các mô não, trong đó yêu cầu phải sinh thiết não – đây hẳn không phải là lựa chọn tốt cho cô. Đó là một chẩn đoán lâm sàng. Không có protein suy giảm trí nhớ trong máu của cô để có thể cho chúng tôi biết cô có bị mất trí nhớ hay không và chúng tôi không hề mong sẽ thấy chứng teo não trên xét nghiệm MRI của cô vào giai đoạn sau.”

Teo não.

“Nhưng không thể thế được, tôi mới năm mươi thôi.”

“Chúng ta thường nghĩ chứng Alzheimer là căn bệnh chỉ ảnh hưởng đến người già, nhưng cũng có mười phần trăm người bệnh khởi phát sớm ở độ tuổi dưới sáu mươi lăm.”

“Có gì khác biệt so với những người già hơn không?”

“Không khác mấy, ngoại trừ nguyên nhân do mối liên kết huyết thống chặt chẽ và nó sẽ biểu hiện bệnh sớm hơn nhiều.”

Mối liên kết huyết thống chặt chẽ. Anna, Tom, Lydia.

“Nhưng nếu anh không chắc chắn tôi đang bị gì, làm sao anh khẳng định tôi mắc chứng Alzheimer?”

“Sau khi nghe cô mô tả những gì đã xảy ra và các bệnh tiền sử, sau kiểm tra định hướng, ghi chép trong sổ, sự chú ý, ngôn ngữ và trí nhớ, tôi khẳng định chín mươi lăm phần trăm là thế. Không có lời giải thích nào khác qua những cuộc kiểm tra thần kinh, máu, dịch não tủy hay MRI, năm phần trăm kia là không có khả năng. Tôi chắc chắn thế, Alice à.”

Alice.

Âm thanh gọi tên cô len lỏi sâu vào từng tế bào và dường như lan ra khắp cơ thể cô. Cô tự nhìn chính mình từ phía góc phòng.

“Vậy nghĩa là gì?” – Cô nghe bản thân mình hỏi.

“Chúng tôi có một vài loại thuốc có thể điều trị chứng Alzheimer mà tôi sẽ kê cho cô bây giờ. Đầu tiên là Aricept, làm tăng khả năng tiết acetylcholine. Thứ hai là Namenda. Nó vừa được phê duyệt vào mùa thu này và đã cho thấy có nhiều hứa hẹn. Không hẳn sẽ chữa khỏi hoàn toàn, nhưng có thể làm chậm sự tiến triển của các triệu chứng, và chúng tôi muốn giúp cô kéo dài thời gian càng lâu càng tốt.”

Thời gian? Còn bao lâu đây?

“Tôi cũng muốn cô dùng vitamin E hai lần một ngày và vitamin C, aspirin, statin một lần một ngày. Cô không có những dấu hiệu rõ ràng nào liên quan đến bệnh tim mạch, nhưng bất cứ thứ gì tốt cho tim thì cũng sẽ tốt cho não bộ, chúng tôi muốn bảo vệ mọi nơ-ron và tế bào thần kinh hết mức có thể.”

Rồi ông viết những thông tin này xuống một toa thuốc.

“Alice, có ai trong gia đình biết cô đến đây không?”

“Không” – cô lại nghe bản thân lên tiếng.

“Thôi được, cô phải nói với ai đó. Chúng tôi có thể làm chậm tốc độ suy giảm nhận thức, nhưng chúng tôi không thể ngăn chặn hay đảo ngược được. Nó quan trọng đối với sự an toàn của cô, ai đó phải biết cô thường xuyên làm gì. Cô sẽ nói với chồng mình chứ?”

Cô thấy mình gật đầu.

“Tốt rồi. Sau đó cô hãy đọc các quy định, làm theo mọi thứ được chỉ dẫn, gọi cho tôi nếu cô có bất kỳ vấn đề gì về tác dụng phụ, và tái khám định kỳ sáu tháng. Từ nay về sau, cô có thể gọi điện hoặc gửi email cho tôi nếu có bất kỳ thắc mắc gì, và tôi cũng khuyến khích cô liên hệ với Denise Daddario. Cô ấy là nhân viên xã hội ở đây và có thể giúp cô bằng các nguồn lực và hỗ trợ. Tôi sẽ gặp vợ chồng cô vào sáu tháng sau và chúng ta sẽ xem cô làm được những gì.”

Cô tìm kiếm ở đôi mắt tinh anh của ông một điều gì khác. Cô chờ đợi. Cô thấy kỳ lạ khi nhận ra tay mình đang siết chặt thanh kim loại của chiếc ghế. Hai tay của cô. Cô đã không trở thành một mẫu sưu tập thanh tao của các phân tử lơ lửng trong góc phòng. Cô, Alice Howland, đang ngồi trên một chiếc ghế cứng và lạnh, cạnh bên một chiếc ghế trống trong văn phòng của một bác sĩ thần kinh, ở khoa Rối loạn bộ nhớ tại tầng thứ tám của Bệnh viện Đa khoa Massachusetts. Và cô vừa được chẩn đoán mắc chứng Alzheimer. Cô đang tìm kiếm một điều gì khác trong đôi mắt vị bác sĩ, nhưng chỉ thấy sự thật và nỗi cảm thông.

Ngày 19 tháng Một. Không bao giờ có chuyện tốt vào ngày này.

NGỒI TRONG VĂN PHÒNG CỬA ĐÓNG KÍN, cô đọc lướt qua bảng câu hỏi “Các hoạt động hằng ngày” của bác sĩ Davis yêu cầu cô gửi cho John. Bảng này cần được điền từ người cung cấp thông tin, chứ KHÔNG PHẢI từ bệnh nhân – điều này đã được in đậm ở dòng trên cùng của trang đầu tiên. Người cung cấp tin, cửa đóng kín, và trái tim đập thình thịch của cô góp phần làm cảm giác tội lỗi thêm rõ rệt, giống như cô đang trốn ở một thành phố Đông Âu, sở hữu tài liệu bất hợp pháp, và cảnh sát đang ở trên đường, còi báo động thì hú ầm ĩ.

Các thang đánh giá cho từng hoạt động dao động từ 0 (không có vấn đề, giống như mọi khi) đến 3 (nghiêm trọng, hoàn toàn phụ thuộc người khác). Cô nhìn xuống phần mô tả bên cạnh thang 3 và đoán rằng chúng là dấu hiệu của giai đoạn cuối – như một đoạn đường thẳng tắp và ngắn ngủi mà cô thì đang bị trói vào một chiếc xe mất thắng và không người lái đang đi trên con đường đó.

Số 3 là một danh sách đầy hổ thẹn:

Phải được đút ăn hầu hết các loại thức ăn.

Không kiểm soát được việc vệ sinh.

Phải nhờ người khác cho uống thuốc và chích ngừa.

Kháng cự lại người chăm sóc khi được tắm gội.

Không còn làm việc.

Chỉ ở nhà hoặc bệnh viện.

Không thể quản lý tiền bạc.

Không thể ra ngoài mà không có người đi kèm. Xấu hổ, nhưng bộ óc phân tích của cô ngay lập tức nghi ngờ sự liên quan thực sự giữa danh sách này với kết quả cá nhân cô. Trong danh sách này những điều nào là sự tiến triển của chứng bệnh Alzheimer và điều nào là xảy ra do người ta quá lớn tuổi. Những người 80 tuổi không kiểm soát được chức năng cơ thể vì họ mắc chứng Alzheimer hay vì bàng quang của họ đã 80 tuổi. Có lẽ những điều ở thang 3 không dành cho một người như cô – một người còn quá trẻ và khỏe mạnh.

Điều tồi tệ nhất của thứ này nằm dưới tiêu đề “Sự giao tiếp.”

Những phát ngôn khó hiểu.

Không hiểu những gì mọi người đang nói.

Mất khả năng đọc.

Không viết được.

Mất khả năng ngôn ngữ.

Khác với việc chẩn đoán sai, cô không tài nào dựng nên một giả thuyết là hệ miễn dịch của cô sẽ bị xếp vào thang 3. Tất cả đều có thể áp dụng cho ai đó giống cô. Một kẻ mắc bệnh Alzheimer.

Cô nhìn mấy chồng sách và tạp chí trên kệ, đống bài thi cuối kỳ cần chấm trên bàn, những email trong hộp thư đến và ánh sáng đỏ cứ nhấp nháy trên điện thoại. Cô nghĩ đến những quyển sách mình luôn muốn đọc, những quyển cô trưng bày ở kệ sách trong phòng ngủ, sách gối đầu giường của cô sau này. Moby-Dick. Cô có những nghiên cứu cần thực hiện, bài văn cần viết, bài giảng cần dạy. Mọi thứ cô làm và yêu quý, tất cả mọi thứ của cô, đều cần đến ngôn ngữ.

Những trang cuối cùng của bảng câu hỏi yêu cầu các thông tin để đánh giá mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng mà bệnh nhân gặp phải trong tháng qua: hoang tưởng, ảo giác, kích động, trầm cảm, lo âu, phấn chấn, thờ ơ, ức chế, khó chịu, rối loạn vận động lặp lại, giấc ngủ bị gián đoạn, thay đổi thói quen ăn uống. Cô cảm thấy bị thôi thúc muốn điền kín các câu trả lời về bản thân, để chứng minh rằng mình vẫn ổn và những phán đoán của bác sĩ Davis là sai. Song cô nhớ tới lời của ông: Cô có thể không phải là nguồn tin đáng tin cậy cho những gì đang diễn ra. Có thể, nhưng hiện tại cô vẫn nhớ ông ấy đã nói gì. Cô tự hỏi còn bao lâu thì cô sẽ rơi vào tình thế đó.

Phải thừa nhận là kiến thức về bệnh Alzheimer của cô rất sơ sài. Cô biết rằng bộ não của người bệnh Alzheimer bị hạ mức acetylcholine, một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng đối với việc học và trí nhớ. Cô cũng biết là vùng hồi hải mã – một cấu trúc nằm bên trong thùy thái dương – rất quan trọng đối với sự hình thành ký ức mới, bị tích tụ thành các mảng và đám rối sợi thần kinh, mặc dù cô không hiểu chính xác đấy là những gì. Cô cũng biết đến chứng mất khả năng định danh, một nhánh bệnh lý liên quan đến lưỡi, là một triệu chứng điển hình khác. Và cô biết rằng ngày nào đó, khi cô nhìn vào gương mặt của chồng, của những đứa con, đồng nghiệp, những gương mặt cô từng biết đến và thương yêu vô vàn, nhưng cô không còn nhận ra họ nữa.

Và cô biết là mọi thứ sẽ không chỉ có vậy. Có nhiều mặt đáng lo ngại hơn cần khám phá. Cô tìm kiếm từ khóa “bệnh Alzheimer” trên Google. Ngón tay của cô vội ấn phím xóa khi có tiếng động bên ngoài cửa. Không có bất kỳ cảnh báo hay đợi cô lên tiếng, cửa bật mở. Cô sợ anh có thể đọc thấy sự choáng váng, lo lắng, quanh co trên khuôn mặt mình.

“Em sẵn sàng rồi chứ?” – John hỏi.

Không, không hề. Nếu cô thú nhận với John như lời bác sĩ Davis dặn, nếu cô đưa anh bảng câu hỏi “Các hoạt động hằng ngày”, mọi thứ sẽ trở thành sự thật. John trở thành người cung cấp tin, Alice sẽ trở thành một bệnh nhân hấp hối, không đủ năng lực. Cô vẫn chưa sẵn sàng để chấp nhận sự thật đó. Chưa phải lúc này.

“Đi nào, còn một tiếng nữa là đóng cửa rồi” – John nói.

“Được rồi” – Alice đáp. – “Em sẵn sàng.”

ĐƯỢC THÀNH LẬP VÀO NĂM 1831, được xem là khu vực nghĩa trang phi tôn giáo đầu tiên của Mỹ, Mount Auburn bây giờ là một cột mốc lịch sử quốc gia, một vườn ươm nổi tiếng thế giới, phong cảnh làm vườn và cuối cùng, đây là nơi an nghỉ của cha mẹ và em gái Alice.

Đây là lần đầu tiên mà cha cô có mặt vào ngày giỗ sau vụ tai nạn định mệnh, hay nói cách khác là ông đã qua đời, điều đó kích động cô. Trước giờ luôn là cuộc viếng thăm riêng giữa cô và mẹ, em gái. Bây giờ, ông ấy cũng ở đây. Nhưng ông ấy không xứng đáng được vậy.

Họ bước xuống Đại lộ Yew, một phần lớn hơn của nghĩa trang. Mắt và chân của cô dừng lại khi họ đi qua phần mộ quen thuộc của gia đình Shelton. Charles và Elizabeth đã chôn cả ba đứa trẻ ở đây – Susie, chỉ là một – đứa bé, có thể chỉ là cái thai chết non, vào năm 1866; Walter, 2 tuổi, vào năm 1868; và Carolyn, 5 tuổi, vào năm 1874. Alice cố lắm mới dám tưởng tượng nỗi đau của Elizabeth khi tên những đứa con của cô cứ lần lượt khắc trên từng bia mộ. Cảnh Anna u buồn và im lặng ngay trong ngày sinh; Tom mất, có lẽ sau cơn bệnh, còn đang mặc bộ pyjama màu vàng; và Lydia, cứng đơ và thiếu sức sống sau một ngày đầy màu sắc ở nhà trẻ – cô không bao giờ có thể kéo dài những tưởng tượng đó. Các mạch tưởng tượng của cô luôn từ chối các hình ảnh khủng khiếp này, và hình ảnh ba đứa con của cô nhanh chóng trở lại một cách sống động.

Elizabeth ở độ tuổi 38 khi đứa con cuối cùng của cô ra đi. Alice tự hỏi liệu cô có cố gắng có thêm một đứa trẻ nhưng lại không thể thụ thai, hoặc cô và Charles bắt đầu ngủ riêng, lo sợ mọi thứ sẽ quá mạo hiểm và rồi sẽ phải mua thêm một phần mộ mới. Cô tự hỏi liệu Elizabeth, người sống hai mươi năm dài hơn Charles, đến bao giờ mới tìm được bình yên trong cuộc đời.

Họ tiếp tục im lặng khi đứng trước các phần mộ của gia đình Alice. Bia mộ của họ rất đơn giản, như những hộp giày Brobdingnagian bằng đá granite, đứng ở một hàng riêng biệt cạnh tán cây sồi lá tím. Anne Lydia Daly, 1955–1972; Sarah Louise Daly, 1931–1972; Peter Lucas Daly, 1932–2003. Tán sồi với những nhánh thấp chỉ tầm ba mươi mét, khoác lên những chiếc lá xanh tía láng bóng vào mùa xuân, hạ và thu. Nhưng bây giờ, vào tháng Một, cây không có lá, những cành như đúc đen và dài, in bóng méo mó trên các phần mộ, trông chúng thật sự đáng sợ. Mọi đạo diễn phim kinh dị hẳn sẽ thích cảnh tượng này.

John nắm lấy bàn tay đeo găng của cô khi họ đứng dưới gốc cây. Không ai lên tiếng. Trong thời tiết ấm áp thế này, họ thèm nghe âm thanh của chim chóc, vòi phun nước, toàn bộ âm thanh của xe cộ, và tiếng nhạc radio vang lên từ xe. Hôm nay, nghĩa trang thật tĩnh lặng so với âm thanh xe cộ ồn ào như thủy triều ngoài cổng.

John đã nghĩ gì khi họ đứng đấy? Cô không bao giờ hỏi anh. Anh chưa bao giờ gặp mẹ và em gái cô, thế nên sẽ rất áp lực cho anh khi phải trình bày cảm nghĩ dông dài về chuyện này. Anh suy nghĩ đến cái chết hay linh hồn của chính mình? Hay của cô? Liệu anh có nghĩ đến cha mẹ và chị em mình, những người vẫn còn khỏe mạnh? Hay anh đang đắm chìm trong một thế giới khác, nhớ tới những chi tiết trong cuộc nghiên cứu hoặc mơ về bữa ăn tối?

Làm sao cô có thể mắc chứng Alzheimer? Mối liên kết huyết thống chặt chẽ. Liệu mẹ cô sẽ mắc bệnh này nếu bà sống tới năm 50 tuổi? Hay là cha cô?

Khi còn trẻ, ông đã nốc kha khá rượu mà chưa bao giờ say khướt. Dần dần, ông trở nên im lặng và sống nội tâm nhưng luôn đảm bảo những kỹ năng giao tiếp cho việc đặt hàng chai whiskey tiếp theo hay để khẳng định mình thừa sức lái xe. Cũng như cái đêm ông đâm chiếc Buick vào cái cây bên quốc lộ 93, kết thúc sinh mạng của chính vợ và con gái mình.

Thói quen uống rượu của ông không bao giờ thay đổi, nhưng cách ăn ở của ông thì có, vào khoảng mười lăm năm trước. Nói năng vô nghĩa, hiếu chiến, không có thói quen giữ vệ sinh, không biết cô là ai – Alice đã nhầm tưởng những điều này là do rượu đã tác động xấu đến gan và tâm trí ông. Liệu có phải ông đã sống với chứng Alzheimer mà không ai hay biết? Cô không muốn quan tâm và cũng chẳng cần khám nghiệm tử thi, bởi nếu đó là sự thật thì nó sẽ trở thành cái cớ lý tưởng để buộc tội cô đã tệ với cha của mình.

Ồ, cha à, cha hạnh phúc chứ? Con đang thừa hưởng mã ADN thật tệ hại đây. Cha đã giết cả gia đình mình. Cha đang cảm thấy thế nào vậy?

Cô bật khóc, không thể kiểm soát cảm xúc và vô cùng đau khổ – khung cảnh này có vẻ phù hợp với bất kỳ người lạ nào khi thấy cô đứng trước cảnh cha mẹ và em gái mình bị chôn vùi dưới lớp đất, bóng tối bao trùm xuống ngôi mộ cạnh cây sồi kỳ lạ. Với John lại hoàn toàn là điều bất ngờ. Cô không nhỏ một giọt nước mắt về cái chết của cha từ tháng Hai năm trước, và những nỗi buồn, mất mát về cái chết của mẹ và em gái cô dường như đã nguôi ngoai theo thời gian.

Anh ôm cô mà không hề dỗ dành hay nói bất cứ điều gì, và cứ ôm cô như thế cho đến khi cô thôi khóc. Cô nhận ra nghĩa trang đã đóng cửa tự lúc nào. Cô nhận ra mình có thể đã quá lo cho John. Cô nhận ra dù có khóc cạn nước mắt cũng không làm sạch bộ não bị nhiễm bẩn của mình. Cô áp mặt mình vào khăn choàng của anh và khóc nức nở đến khi kiệt sức.

Anh ôm đầu cô và hôn lên đôi mắt ướt.

“Ali, em ổn chứ?”

Em không ổn đâu John. Em bị chứng mất trí nhớ Alzheimer.

Cô ước mình có thể nói lớn tiếng điều đó, nhưng không. Chúng mắc kẹt trong đầu cô, nhưng không phải bị chặn bởi các mảng và đám rối sợi thần kinh. Chỉ là cô không cách nào nói ra được.

Cô tưởng tượng tên mình sẽ được đặt cạnh mộ của Anne. Cô thà chết còn hơn bị mất trí. Cô nhìn sang John, ánh mắt anh đầy nhẫn nại và đang chờ cô trả lời. Làm sao cô có thể nói với anh về chuyện mình bị Alzheimer đây? Anh yêu tâm trí cô. Sao anh còn yêu cô nếu cô đánh mất nó? Cô quay lại nhìn cái tên Anne khắc trên đá.

“Em chỉ vừa trải qua một ngày rất tồi tệ thôi.”

Cô thà chết còn hơn nói cho anh biết.

CÔ MUỐN GIẾT CHÍNH MÌNH. Suy nghĩ bốc đồng về chuyện tự tử đã đến với tốc độ chóng mặt, rút cạn sinh lực của cô, giam cô vào những ngày tăm tối và tuyệt vọng. Song chúng cũng nhanh thiếu sức chịu đựng và chết khô bởi mối liên kết mong manh. Cô không muốn chết. Cô vẫn là một giáo sư Tâm lý học có uy tín của Đại học Harvard. Cô vẫn có thể đọc và sử dụng phòng tắm đúng cách. Cô còn thời gian. Và cô sẽ kể cho John.

Cô ngồi trên ghế và quấn tấm chăn màu xám trên đùi, ôm lấy đầu gối, cảm giác muốn bỏ mặc tất cả. Anh ngồi xuống mép ghế đối diện cô, cơ thể anh hoàn toàn trầm mặc.

“Ai nói em vậy?” – John hỏi.

“Bác sĩ Davis, anh ấy là một bác sĩ thần kinh ở Bệnh viện Đa khoa Mass.”

“Bác sĩ thần kinh. Hồi nào?”

“Mười ngày trước.”

Anh quay đầu lại và xoay chiếc nhẫn cưới khi trong vờ như mình đang kiểm tra sơn tường. Cô nín thở và chờ anh quay lại nhìn mình lần nữa. Có lẽ anh chẳng còn nhìn cô như trước. Có lẽ cô sẽ không bao giờ thở lại. Cô cuộn mình chặt hơn.

“Anh ta sai đó, Alice.”

“Không đâu.”

“Em không có gì bất ổn cả.”

“Có đấy. Em quên mọi thứ.”

“Ai cũng quên mà. Anh thường không nhớ mình để kính ở đâu. Vậy tay bác sĩ thần kinh đó cũng sẽ nói anh bị Alzheimer à?”

“Các vấn đề em gặp không hề bình thường. Nó không đơn thuần là để quên kính.”

“Được rồi, vậy là em quên đi vài chuyện, nhưng em đang trong thời kỳ mãn kinh, em căng thẳng, và cái chết của cha có thể mang đến tất cả cảm xúc liên quan đến cái chết của mẹ và Anne. Có lẽ do em bị trầm cảm thôi.”

“Em không bị trầm cảm.”

“Làm sao em biết? Em là bác sĩ ư? Em nên gặp bác sĩ của mình chứ không phải một chuyên gia thần kinh.”

“Em gặp rồi.”

“Chính xác thì bà ta nói gì?”

“Bà ấy không nghĩ đó là do trầm cảm hay mãn kinh. Bà ấy không có lời giải thích cụ thể nào. Bà chỉ nghĩ em bị mất ngủ. Bà muốn đợi và coi thử em ra sao trong vài tháng tới.”

“Thấy chưa, em chỉ không chăm sóc mình tốt thôi.”

“Bà ấy không phải bác sĩ thần kinh, John à. Em ngủ đủ giấc. Và nó bắt đầu từ tháng Mười Một. Mọi thứ đã kéo dài vài tháng rồi và nó không hề tốt lên. Nó chỉ tồi tệ thêm mà thôi.”

Để anh tin mình, cô đã gợi lại vài sự việc xảy ra ở vài tháng trước. Bắt đầu từ vài ví dụ mà anh đã biết.

“Anh có nhớ là em không hề đi Chicago không?”

“Điều đó có thể xảy ra với anh hoặc bất kỳ ai ta quen. Chúng ta đều có lịch làm việc kinh khủng.”

“Chúng ta luôn có lịch làm việc kinh khủng, nhưng em chưa bao giờ quên chuyến bay. Và em không chỉ quên chuyến bay, em quên cả cuộc hội nghị, dù rằng em đã chuẩn bị cho nó cả ngày.”

Anh chờ đợi. Có những bí mật khổng lồ mà anh không biết.

“Em quên mất lời. Em hoàn toàn quên chủ đề của bài giảng trong thời gian đi từ văn phòng đến lớp học, đến chiều em không thể giải mã những thứ em đã viết trong danh sách nhắc nhở vào buổi sáng.”

Cô có thể đọc được những ý nghĩ hoài nghi của anh. Mệt mỏi, căng thẳng, lo lắng. Bình thường, bình thường, bình thường.

“Em đã không làm bánh vào đêm Giáng Sinh bởi vì em không thể. Em không thể nhớ một bước duy nhất trong công thức. Nó đã được mẹ truyền cho em, và em đã làm món tráng miệng này hằng năm kể từ hồi còn nhỏ.”

Cô đã trình bày một trường hợp đầy ngạc nhiên và hẳn là thuyết phục đối với bản thân mình. Đối với ban thẩm phán thì hẳn là đủ. Nhưng John yêu cô.

“Em đã đứng phía trước Nini’s ở quảng trường Harvard và không biết đường về nhà. Em đã không tưởng tượng nổi mình đang ở đâu.”

“Chuyện đó xảy ra lúc nào?”

“Hồi tháng chín.”

Cô đã phá vỡ sự im lặng của anh, nhưng không thể phá quyết tâm của anh đang cố gắng bảo vệ sức khỏe tinh thần cho cô.

“Đây chỉ là một số chuyện thôi. Em đã quá sợ hãi khi nghĩ đến những chuyện em có thể quên mà em không biết.”

Biểu hiện của anh thay đổi, như thể anh đã xác định được thứ gì có ý nghĩa trong bài trắc nghiệm tâm lý của Rorschach – như những vết ố ở tấm phim RNA của anh.

“Vợ của Dan.” – Anh dường như đang nói với chính mình hơn là nói với cô.

“Gì cơ?” – Cô hỏi.

Một thứ gì đó nứt ra. Cô nhận thấy điều đó. Một khả năng chợt tràn ra, khuấy loãng niềm tin của cô.

“Anh cần đọc vài thứ, và sau đó anh cần nói chuyện với bác sĩ thần kinh của em.”

Không nhìn vào mắt cô, anh đứng dậy và đi thẳng tới chỗ nghiên cứu, để mặc cô ngồi trên ghế, ôm lấy đầu gối, cảm giác như muốn bỏ tất cả mà đi.