← Quay lại trang sách

- 11 - THÁNG BẢY, NĂM 2004

“John? John? Anh có nhà không?”

Cô biết chắc rằng anh không ở nhà, nhưng khả năng chắc chắn được một việc gì cũng biến mất bởi kí ức cô đã có quá nhiều lỗ hổng, kể cả việc anh có ở nhà hay không.

Chắc hẳn anh đã đi đâu đó, nhưng cô không tài nào nhớ được anh rời đi khi nào hay đi đâu. Có phải anh đã chạy ra quán để uống sữa hoặc cà phê? Hay anh ra ngoài thuê phim? Nếu vậy thì anh sẽ trở về trong vài phút nữa. Cũng có thể anh lái xe về Cambridge, trong trường hợp anh muốn đi đâu đó ít nhất là vài giờ và cũng có thể là cả đêm? Hoặc cuối cùng anh cũng đã quyết định, và chỉ đơn giản là anh đã rời đi, không bao giờ trở lại? Không, anh sẽ không làm thế. Cô chắc chắn như vậy.

Căn nhà ở quần đảo Chatham của họ được xây dựng vào năm 1990 có vẻ lớn hơn, thoáng và ít phòng hơn căn nhà ở Cambridge. Cô bước vào bếp, nó chẳng giống như căn bếp ở nhà của họ. Tường, tủ, các vật dụng và ghế quầy bar đều màu trắng, sàn gạch trắng đôi chỗ bị nứt vì chiếc bàn đá xà bông có các vệt sắc xanh cô-ban và những chiếc lọ thủy tinh, đồ gốm trên bàn cũng mang sắc trắng. Tất cả trông như một trang sách tô màu chỉ dùng mỗi một cây bút chì màu xanh để tô lên.

Hai chiếc đĩa và khăn ăn được sử dụng trên đảo còn hiện rõ bằng chứng của những vết salad, mì spaghetti và sốt đỏ cho bữa tối. Một chiếc ly trong số đó có đọng một ngụm vang trắng. Với sự tò mò phân tích của một nhà khoa học pháp lý, cô cầm ly lên và kiểm tra nhiệt độ rượu bằng môi mình. Nó vẫn còn lạnh. Cô đã cảm thấy thỏa mãn. Cô nhìn lên đồng hồ. Chỉ vừa qua chín giờ.

Họ đã ở Chatham một tuần nay. Trong những năm qua, sau một tuần xa cách lối sống ngày qua ngày bận tâm về Harvard, cô được tận hưởng một cuộc sống thoải mái ở nơi đây và hoàn toàn chuyên tâm vào việc cho ra đời quyển sách thứ ba hoặc thứ tư. Nhưng năm nay, mặc dù lịch trình ngày qua ngày của Harvard đều chất chồng và cần giải quyết gấp, điều đó lại khiến cô cảm thấy thân thuộc và được an ủi. Các cuộc họp, hội nghị chuyên đề, giờ lên lớp, và những cuộc hẹn như vụn bánh mì giúp cô sống sót qua ngày.

Giờ ở Chatham, cô không có thời gian biểu. Cô ngủ muộn, ăn bất cứ khi nào và lắng nghe mọi âm thanh. Cô uống thuốc hai lần mỗi ngày, kiểm tra trạng thái tinh thần vào mỗi sáng và cô chạy bộ cùng John. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Cô cần vụn bánh mì lớn hơn và nhiều hơn thế nữa.

Cô thường không biết hôm nay là thứ mấy hoặc bây giờ là thời điểm nào trong ngày và đó là vấn đề lớn. Hơn một lần khi cô ngồi xuống bàn ăn, cô không thể biết đây là bữa nào trong ngày. Ngày hôm qua, khi người hầu bàn ở bar Sand đặt một đĩa sò nướng trước mặt cô, cô chỉ sẵn lòng và nhiệt tình xúc một miếng bánh kếp.

Nhìn ra ngoài đường từ cửa phòng bếp đang mở, chẳng có chiếc xe nào cả. Không khí bên ngoài vẫn lưu lại dấu vết của những ngày nóng và có tiếng ễnh ương kêu, tiếng cười của một phụ nữ, cả tiếng thủy triều ngoài biển Hardings. Cô để lại cho John lời nhắn bên cạnh những chiếc đĩa còn chưa được rửa sạch:

Em đi dạo ngoài biển. Yêu anh, A

Cô hít thật sâu bầu không khí buổi đêm trong lành. Bầu trời xanh nửa đêm đã chi chít những vì sao sáng và vầng trăng lưỡi liềm như đang nhoẻn miệng cười. Trời có vẻ tối, nhưng vẫn không tối bằng đêm ở Cambridge. Hoàn toàn không có đèn đường hay ánh sáng hắt từ xa ở đường chính, chỉ có ánh sáng từ ban công, từ những căn phòng trong nhà, đèn pha xe, và ánh trăng chiếu xuống khu vực bãi biển. Ở Cambridge, bóng tối như thế này sẽ khiến cô không thoải mái khi đi bộ một mình, nhưng tại đây, bên bờ biển nhỏ và khu vực nghỉ mát này, cô cảm thấy vô cùng an toàn.

Không có chiếc xe nào đậu ngoài bãi và cũng không ai ở trên biển. Cảnh sát thị trấn thường không khuyến khích hoạt động về đêm. Vào giờ này, không hề có tiếng trẻ em la hét hay tiếng kêu của đàn hải âu, không có những cuộc gọi điện không-thể-không-trả-lời, không tích cực lo lắng cho những gì sắp tới, không có gì phá vỡ được sự yên bình.

Cô bước dọc mép nước và để sóng biển vỗ vào chân mình. Những đợt sóng ấm áp lướt nhẹ lên chân cô. Nằm ở khu vực Nantucket Sound, nước ở bãi biển Hardings ấm hơn mười độ so với những bờ biển lân cận tiếp giáp trực tiếp vùng Atlantic lạnh giá.

Cô cởi bỏ áo thun và áo ngực trước tiên, rồi đến váy và quần lót, tiến bước xuống. Nước, những đám rong biển tự do hòa cùng từng đợt sóng, chạm nhẹ vào chân cô. Cô bắt đầu hít thở theo nhịp thủy triều. Lúc cô nằm ngửa và tự thả trôi, cô kinh ngạc khi phát hiện ngón tay và ngón chân mình lúc lướt qua mặt biển sẽ phát ra lần quang như bụi yêu tinh.

Ánh trăng phản chiếu cổ tay phải của cô. Cụm từ “Trở về an toàn” được khắc ở mặt trước của một chiếc vòng phẳng, rộng hai inch, bằng thép không gỉ. Con số một-tám-không-không, ký hiệu số dành riêng cho cô, và những từ “suy giảm trí nhớ” được khắc ở mặt sau. Suy nghĩ của cô xô dạt theo những đợt sóng, di chuyển từ món trang sức không mong muốn đến dây chuyền bươm bướm của mẹ cô, vượt qua kế hoạch tự tử, qua những quyển sách cô dự định đọc, và cuối cùng mắc kẹt vào số phận chung của Virginia Woolf và Edna Pontellier. Thật dễ dàng. Cô có thể bơi thẳng đến Nantucket cho tới khi mệt rã rời.

Cô nhìn xuống mặt nước tối tăm. Cơ thể cô mạnh mẽ và khỏe khoắn, giữ cho cô nổi lên trên nước, mỗi bản năng cơ thể đều chiến đấu vì sự sống. Phải, cô đã không nhớ đến bữa ăn với John tối nay hay anh đã đi đâu. Và có thể vào sớm mai, cô lại không thể nhớ về đêm nay, nhưng lúc này, cô không hề tuyệt vọng. Cô cảm thấy tràn đầy sức sống và hạnh phúc.

Cô nhìn về phía bờ biển, khung cảnh đều mờ ảo. Một bóng hình đang tiến đến. Cô biết đó là John trước khi bản thân có thể xác định bất kỳ dấu hiệu nào của anh qua dáng đi.

Cô không hề hỏi anh đã ở đâu hay anh đã rời đi bao lâu. Cô cũng không cảm ơn anh vì đã quay trở lại. Anh cũng không mắng cô vì đã ra ngoài một mình mà không có điện thoại di động, và anh cũng không yêu cầu cô đứng lên và về nhà ngay. Không nói một lời, anh cởi áo và lao vào đại dương của cô.

“JOHN?”

Cô tìm thấy anh đang sơn phần khung của nhà để xe.

“Em đã đi khắp nhà tìm anh” – Alice nói.

“Anh đã ra ngoài, anh không nghe tiếng em” – John đáp.

“Khi nào anh có cuộc họp?” – Cô hỏi.

“Thứ Hai.”

Anh sẽ tới Philadelphia trong một tuần để tham dự Hội nghị Quốc tế về bệnh Alzheimer lần thứ chín.

“Tức là sau khi Lydia tới đây à?”

“Ừ, con bé sẽ đến đây vào Chủ nhật.”

“Ừ.”

Nhận được đơn xin việc của Lydia, nhà hát Monomoy đã mời cô tham gia như là một nghệ sĩ khách mời cho mùa hè này.

“Em sẵn sàng chạy chưa?” – John hỏi.

Sương mù buổi sáng vẫn chưa tan đi, và không khí mát hơn khi cô mặc áo vào.

“Em chỉ cần thay bộ quần áo khác thôi.”

Bước vào cửa trước, cô mở tủ quần áo. Mặc quần áo thoải mái ở đây vào mùa hè thật sự là một thách thức, với nhiệt độ vào mọi ngày luôn bắt đầu từ năm mươi độ F, tăng vọt lên đến tám mươi độ F và vòng trở lại khoảng năm mươi độ F, kèm theo những cơn gió đại dương mạnh lúc đêm xuống. Nó đòi hỏi một tinh thần thời trang sáng tạo và khả năng sẵn sàng thêm hay bỏ phụ kiện nhiều lần trong ngày. Dù có vài bộ khá hoàn hảo để ngồi hay đi bộ dọc bãi biển, mọi thứ lúc này lại như quá cồng kềnh cho việc chạy bộ.

Cô lên tầng trên và vào phòng ngủ của họ. Sau khi tìm kiếm nhiều ngăn kéo, cô tìm thấy một chiếc áo lông cừu mỏng và mặc nó vào. Cô chú ý đến quyển sách mình muốn đọc đang ở trên đầu giường. Cô cầm lên, xuống cầu thang và vào bếp. Cô rót cho mình một ly trà đá và bước ra ban công phía sau. Sương mù sáng sớm còn chưa tan hết, và trời mát hơn cô dự đoán. Cô đặt ly nước và quyển sách lên chiếc bàn đặt giữa chiếc ghế Adirondack màu trắng, rồi trở vào nhà để lấy tấm chăn.

Cô trở lại, quấn mình trong chăn, ngồi lên ghế và mở quyển sách ra ngay trang đã được đánh dấu. Đọc sách giờ đã trở thành chuyện đầy cay đắng. Cô phải đọc đi đọc lại các trang liên tục để đảm bảo mình sẽ nhớ được các luận điểm hoặc đoạn tường thuật, và nếu cô đặt sách xuống trong một khoảng thời gian nào đó, rất có thể cô phải đọc lại cả chương để tìm lại chủ đề. Thêm vào đó, cô cảm thấy lo lắng hơn khi quyết định cần phải đọc những gì. Nếu cô không đủ thời gian để đọc tất cả những thứ mình muốn thì sao? Nỗi đau được ưu tiên, một lời nhắc nhở rằng đồng hồ đã điểm, rằng có vài thứ sẽ mãi không thành.

Cô chỉ vừa bắt đầu đọc vở Vua Lear. Cô rất thích những vở bi kịch của Shakespeare nhưng chưa bao giờ đọc chúng. Thật không may, như một thói quen, cô lại thấy mình mắc kẹt chỉ sau vài phút. Cô đọc lại trang trước, ngón tay trỏ rà dọc những con chữ để lần lại dòng hồi tưởng. Cô uống trà đá và ngắm nhìn đàn chim trên cành.

“Em đây rồi. Em làm gì thế, ta ra ngoài đi dạo không?” – John hỏi.

“Ừ, được, tuyệt đấy. Quyển sách này làm em điên mất.”

“Vậy thì đi thôi.”

“Anh sẽ đi họp vào hôm nào?”

“Thứ Hai.”

“Hôm nay là thứ mấy rồi?”

“Thứ Năm.”

“À. Còn khi nào Lydia tới đây?”

“Chủ nhật.”

“Nghĩa là trước khi anh đi.”

“Ừ. Ali, anh đã nói với em về tất cả chuyện này rồi. Em nên ghi chú chúng trong di động đi, anh nghĩ nó sẽ giúp em cảm thấy ổn hơn.”

“Được rồi, em xin lỗi.”

“Sẵn sàng chứ?”

“Ừ. Để em đi vệ sinh trước đã.”

“Được thôi, anh sẽ ra nhà xe.”

Cô đặt chiếc cốc rỗng ở cạnh bồn rửa bát, bỏ tấm chăn và quyển sách trên ghế bành ở phòng khách. Cô đã sẵn sàng di chuyển, nhưng đôi chân cô vẫn chần chừ cần định hướng. Cô tới đây để làm gì nhỉ? Cô ngó lại – tấm chăn và sách, cốc nước trên bàn, ban công với John. Anh sẽ rời đây sớm để tham dự Hội nghị Quốc tế về chứng bệnh Alzheimer. Có thể là vào Chủ nhật? Cô phải hỏi anh để chắc chắn. Họ sắp ra ngoài chạy bộ. Trời hơi lạnh bên ngoài. Cô vào đây để lấy áo lông cừu! Không, không phải nó. Cô đã mặc nó rồi. Thứ chết tiệt đó.

Chỉ đến khi cô ra khỏi cửa, một áp lực bất thình lình xuất hiện ở bàng quang nhắc nhở cô rằng mình cần đi vệ sinh bây giờ. Cô vội vã trở vào nhà và mở cửa vào phòng tắm. Chỉ là, như cô nghi ngờ, đó không phải phòng tắm. Một cây chổi, cây lau nhà, xô, máy hút bụi, ghế đẩu, hộp công cụ, bóng đèn, đèn pin, thuốc tẩy. Phòng đựng đồ gia dụng.

Cô nhìn xa hơn dọc xuống hành lang. Nhà bếp ở bên trái, phòng khách ở bên phải, và nó ở đây. Phải có ở tầng này chứ. Nó phải ở đây. Ở ngay chỗ này. Nhưng không có gì cả. Cô vội vã vào nhà bếp nhưng chỉ tìm thấy một cánh cửa, và nó dẫn ra cổng sau. Cô chạy lại phòng khách, nhưng dĩ nhiên, không có cái phòng tắm nào ở phòng khách cả. Cô chạy lại hành lang và đẩy tay nắm cửa.

“Ơn trời, ơn trời, ơn trời.”

Cô đẩy cánh cửa như thể một ảo thuật gia đang tiết lộ cú lừa ngoạn mục nhất, nhưng phòng tắm không hề xuất hiện.

Làm thế nào mà mình có thể lạc ở chính ngôi nhà của mình?

Cô nghĩ tới chuyện lao lên những tầng trên với đầy đủ phòng tắm, nhưng kỳ lạ thay, cô như chết lặng và bị mắc kẹt ở Miền Ảo Ảnh – cứ như là phòng tắm bị biến mất khỏi tầng một. Cô không thể giữ bình tĩnh hơn. Cô như đang mơ hồ quan sát chính mình, một người phụ nữ khốn khổ, xa lạ đang khóc ở hành lang. Đó không phải âm thanh khóc than vì bảo vệ điều gì đó của một phụ nữ trưởng thành. Đó là tiếng khóc sợ hãi, thua cuộc và không thể kiềm chế của một đứa trẻ con.

Không chỉ rơi nước mắt, cô không thể chịu đựng lâu hơn được nữa. John phá cửa trước vào vừa kịp lúc chứng kiến nước tiểu chảy xuống chân phải, vớ và cả giày thể thao của cô.

“Đừng nhìn em!”

“Ali, đừng khóc nữa, sẽ ổn thôi mà.”

“Em không biết em đang ở đâu nữa.”

“Ổn thôi, em ở ngay đây mà.”

“Em đang bị lạc.”

“Em không bị lạc, Ali, em đang ở cùng anh.”

Anh ôm cô, và vỗ về, an ủi cô như thể lúc cô thấy anh đang trấn an con họ sau vô số chấn thương vật lý và bất công xã hội.

“Em không thể tìm được phòng tắm.”

“Không sao mà.”

“Em xin lỗi.”

“Đừng xin lỗi, ổn cả mà em. Đi nào, hãy thay đổi không khí một tí. Thời tiết dạo này đang nóng lên, em hẳn là cần thứ gì đó để xoa dịu.”

TRƯỚC KHI JOHN DỰ HỘI NGHỊ, anh đưa cho Lydia những hướng dẫn chi tiết liên quan đến thuốc của Alice, thời gian chạy bộ, số di động của cô, và chương trình “Trở về an toàn”. Anh cũng cho Lydia số điện thoại của bác sĩ thần kinh để phòng hờ. Khi Alice hồi tưởng lại bài thuyết trình nhỏ của anh trong đầu, nó trông rất giống như lời dặn dò của các vị phụ huynh đến người bảo mẫu trước khi họ rời đi Maine hay Vermont trong kỳ nghỉ cuối tuần. Giờ đây cô cần được coi sóc. Bởi chính con gái mình.

Sau bữa tối đầu tiên hai mẹ con ăn riêng với nhau tại Squire, Alice và Lydia đi dọc xuống phố chính mà không nói lời nào. Các dòng xe ô tô sang trọng và những chiếc SUV đỗ dọc theo lề đường có trang bị giá đỡ dành cho xe đạp và những xuồng kayak chất nghẹt trên nóc xe, chen chúc với xe đẩy em bé, ghế bãi biển, những chiếc dù, hay những biển số xe thể thao đến từ Connecticut, New York, và New Jersey thêm với Massachusetts, báo hiệu chính thức bắt đầu một mùa hè sôi động. Những gia đình thong thả đi dọc theo vỉa hè mà không thèm màng tới đâu là làn đường cho người đi bộ, thong thả và không có phương hướng cụ thể, dừng lại, lùi xuống, hay nhìn ngắm những món hàng trưng bày của các cửa tiệm. Như thể bọn họ có toàn bộ thời gian trên cõi đời này.

Qua mười phút dạo bộ, hai người dễ dàng thoát khỏi trung tâm thành phố đông đúc. Họ dừng trước ngọn hải đăng Chatham và hít thở không khí trong cái nhìn toàn cảnh bãi biển bên dưới trước khi đi tiếp ba mươi bước xuống bãi cát. Một hàng giày dép có sẵn từ trước, là do những người tới sớm hơn sắp sẵn. Alice và Lydia thêm đôi giày của mình vào cuối hàng và tiếp tục đi bộ. Biển hiệu phía trước có ghi:

CẢNH BÁO: DÒNG CHẢY MẠNH. Những đợt sóng và dòng chảy bất ngờ có thể gây nguy hiểm tính mạng. Khu vực nguy hiểm đối với các hoạt động: bơi lội, lặn, trượt nước, lướt ván, chèo thuyền nhỏ, bè và canô.

Alice nhìn và không ngừng lắng nghe tiếng sóng đang vỗ vào bờ. Nếu không có những bờ đê khổng lồ được xây dựng ở cạnh các bất động sản triệu đô dọc Shore Road, bãi biển có thể nuốt trọn mọi ngôi nhà, cắn xé chúng mà không chút tiếc thương hay ân hận.

Cô tưởng tượng căn bệnh Alzheimer của mình như đại dương ở biển Lighthouse – không thể ngăn lại, dã man và muốn phá hủy hết thảy. Chỉ khác là không có bờ đê nào trong bộ não để bảo vệ những ký ức và suy nghĩ của cô khỏi sự tấn công.

“Mẹ xin lỗi vì không đến buổi biểu diễn” – cô nói với Lydia.

“Không sao ạ. Con biết là vì bố bận trong thời gian này.”

“Mẹ không thể chờ đến khi vở kịch của con ra mắt trong mùa hè này.”

“Vâng ạ.”

Mặt trời treo lửng lơ dưới thấp và trông to lớn đến không tưởng ở nền trời màu xanh phớt hồng, như chực lao vào biển Atlantic. Họ đi ngang qua một người đàn ông đang quỳ trên cát, ngắm máy ảnh ngay đường chân trời, cố nắm bắt vẻ đẹp thoáng qua của nó trước khi chúng biến mất cùng ánh mặt trời.

“Buổi hội thảo bố dự có liên quan đến căn bệnh Alzheimer đúng không?”

“Ừ.”

“Bố có tìm được một phương pháp tốt hơn không?”

“Ông ấy đang cố.”

“Mẹ nghĩ bố sẽ tìm ra chứ?”

Alice nhìn đợt sóng đang đến, xóa sạch mọi dấu chân, đánh vỡ một tòa lâu đài cát có trang trí vỏ sò, đẩy xẻng nhựa vào một lỗ cát bị đào lên, sóng đánh lên bờ biển lịch sử hằng ngày. Cô ghen tị với những ngôi nhà xinh đẹp bên kia bờ.

“Không.”

Alice nhặt một vỏ sò lên. Cô phủi những hạt cát đi, để lộ vỏ sò màu trắng sữa và phần trong vỏ màu hồng nhã nhặn. Cô thích cảm giác mềm mại này, nhưng cạnh bị vỡ một chút. Cô có ý nghĩ ném nó xuống nước nhưng vẫn quyết định giữ lại.

“Con nghĩ là bố sẽ không dành thời gian để đi nếu ông cho rằng mình không tìm được gì đâu” – Lydia nói.

Hai cô gái mặc chiếc áo sơ mi đẫm mồ hôi của Đại học Massachusetts đi ngang qua họ, cười khúc khích. Alice nở nụ cười và nói “Xin chào” ngay khi họ đi qua.

“Mẹ ước gì con đi học đại học” – Alice nói.

“Mẹ, thôi đi mà.”

Không muốn mở đầu tuần mới cùng nhau bằng cách thổi bùng lên một trận chiến, Alice lẳng lặng hồi tưởng lại khi họ bước đi. Những giáo sư cô rất kính trọng và lo sợ mình sẽ thành trò hề trước mặt họ, những chàng trai cô rất yêu quý và càng sợ mình sẽ trông như một trò hề hơn, những buổi thức thâu đêm trước kỳ thi, các lớp học, bữa tiệc, tình bạn, buổi gặp gỡ John – ký ức của cô về khoảnh khắc ấy luôn sinh động, hoàn toàn nguyên vẹn, và thật dễ dàng gợi nhớ. Chúng khiến cô có chút tự mãn, mọi thứ đầy đủ và sẵn sàng, cứ như thể chẳng có dấu hiệu gì về cuộc chiến sắp diễn ra cách đấy vài centimet.

Bất cứ khi nào nghĩ về trường đại học, dòng hồi tưởng của cô luôn quay về khoảng tháng Một khi cô còn là sinh viên năm nhất. Tầm khoảng ba giờ sau khi gia đình cô tới thăm và ra về, Alice đã nghe thấy tiếng gõ cửa ngập ngừng tại phòng ký túc xá.

Cô vẫn nhớ từng chi tiết của vị trưởng khoa đứng ở ngưỡng cửa lúc ấy – những nếp nhăn mỏng và sâu in hằn chính giữa lông mày, phần nam tính toát ra từ mái tóc muối tiêu, những đốm lông xù lên trên chiếc áo len màu lục, cùng sự cẩn thận trong giọng nói đã được ông hạ âm lượng xuống mức thấp nhất.

Bố của cô đã lái xe đâm vào một cái cây ở quốc lộ 93. Có thể ông đã ngủ quên. Có thể ông đã uống quá nhiều vào bữa tối. Ông ta luôn quá chén như thế.

Ông đã được đưa đến bệnh viện Manchester. Mẹ cô và em gái đều đã mất.

“JOHN? ANH PHẢI KHÔNG?”

“Không, là con đang lấy khăn vào. Trời mưa rồi” – Lydia đáp.

Bầu không khí đầy nặng nề. Tất cả đều vì cơn mưa. Thời tiết đã vô cùng hoàn hảo trong cả tuần qua, với buổi sáng đầy nắng cho việc chuyển bưu thiếp, còn nhiệt độ thì cực tuyệt vời cho giấc ngủ hằng đêm. Não bộ của cô cũng rất chịu khó hợp tác trong suốt cả tuần. Cô đã có thể nhận ra sự khác biệt giữa những ngày tìm kiếm ký ức, ngôn ngữ hay thậm chí là nhà vệ sinh đầy khó khăn; với những ngày chứng Alzheimer tựa như nằm im, không can thiệp chuyện gì. Vào những ngày yên ắng đấy, cô gần như thuyết phục mình rằng bác sĩ Davis và nhân viên tư vấn di truyền đã sai, hoặc sáu tháng qua chỉ là một giấc mơ khủng khiếp, chỉ là một cơn ác mộng, cả con quái vật dưới gầm giường cào mạnh vào người cô đều không có thực.

Từ phòng khách, Alice nhìn Lydia gấp khăn và xếp chúng vào một chiếc ghế đẩu ở dưới bếp. Con bé mặc một chiếc áo hai dây màu xanh lam sáng và chiếc váy đen. Trông con bé như vừa tắm xong. Alice vẫn còn mặc đồ tắm bên dưới chiếc đầm in hình chú cá đang phai dần.

“Mẹ có nên thay đồ không?” – Cô hỏi.

“Tùy mẹ thôi.”

Lydia dọn cốc sạch cho vào tủ và xem đồng hồ. Sau đó cô bước vào phòng khách, gom các tạp chí và catalog từ tràng kỷ đến sàn nhà, rồi chất chúng thành một chồng thật gọn ghẽ cạnh bàn cà phê. Cô xem đồng hồ của mình. Cô lấy một bản sao của tờ Cape Cod ở bên trên chồng tạp chí, ngồi xuống tràng kỷ rồi lướt nhanh qua nó. Họ dường như đang giết thời gian, nhưng Alice không hiểu tại sao. Có gì đó không đúng.

“John đâu rồi?” – Alice hỏi.

Lydia ngước lên khỏi tờ tạp chí, Alice không đoán ra con bé đang thấy buồn cười hay bối rối, hay thậm chí là cả hai.

“Bố sẽ về nhà ít phút nữa thôi.”

“Vậy là chúng ta đang chờ ông ấy.”

“Vâng.”

“Còn Anne?”

“Anna đang ở Boston với Charlie.”

“Không, Anne, em gái mẹ ấy, Anne đâu rồi?”

Lydia nhìn cô không chớp mắt, mọi ánh sáng như rút cạn khỏi khuôn mặt cô.

“Mẹ, dì Anne mất rồi. Dì ấy chết trong một tai nạn giao thông cùng với bà ngoại.”

Đôi mắt của Lydia vẫn nhìn chằm chằm Alice. Alice ngừng thở, và tim cô tựa hồ bị ai bóp nghẹt lại. Đầu và ngón tay cô tê cứng, cả thế giới xung quanh như chìm trong bóng tối và ngột ngạt. Cô hít vào một ngụm không khí thật lớn. Oxi lập tức lấp đầy đầu và những ngón tay cô, nhưng đồng thời trái tim đang đập thình thịch của cô cũng bị lấp đầy bởi cơn giận dữ và đau buồn. Cô bắt đầu nấc lên và khóc.

“Không, mẹ à, chuyện này xảy ra lâu rồi, mẹ nhớ chứ.”

Lydia tiếp tục nói chuyện, nhưng Alice không còn nghe cô nói gì nữa. Cô chỉ có thể cảm nhận cơn giận dữ và nỗi buồn chảy qua từng tế bào, qua con tim âm ỉ đau và giọt nước mắt nóng hổi, và cô chỉ có thể nghe tiếng chính mình vang vọng trong đầu đang la hét, kêu gào tên Anne và mẹ.

John đứng trước họ, cả người ướt sũng.

“Chuyện gì thế?”

“Mẹ vừa hỏi về dì Anne. Mẹ nghĩ họ chỉ vừa mới mất.”

Anh ôm lấy cô trong vòng tay. Anh cố nói chuyện với cô, cố giúp cô giữ bình tĩnh. Tại sao anh cũng không suy sụp? Anh đã biết điều này một thời gian, đó là lý do, và anh đã giữ bí mật chuyện này. Cô không thể tin anh nữa.