← Quay lại trang sách

- 18 - THÁNG MỘT, NĂM 2005

Alice, hãy trả lời những câu hỏi sau:

1. Bây giờ là tháng mấy?

2. Cô sống ở đâu?

3. Văn phòng của cô ở đâu?

4. Sinh nhật của Anna vào ngày nào?

5. Cô có bao nhiêu người con?

Nếu cô thấy khó trả lời bất cứ câu hỏi nào trong những câu trên, hãy mở thư mục “Bươm bướm” trên máy tính của cô và làm theo hướng dẫn ngay lập tức.

Tháng Mười Hai, Quảng trường Harvard, Harvard, Tháng Tư, Ba

*

THÁNG MỘT, NĂM 2005

“Mẹ ơi, dậy đi. Mẹ đã ngủ bao lâu rồi bố?”

“Tới giờ là khoảng mười tám tiếng rồi.”

“Đã bao giờ mẹ ngủ lâu vậy chưa?”

“Vài lần rồi.”

“Bố à, con thấy lo. Lỡ như hôm qua mẹ uống thuốc quá liều thì sao?”

“Không đâu, bố kiểm tra lọ thuốc và hộp chia thuốc của mẹ rồi.”

Alice có thể vẫn nghe họ nói, và cô có thể hiểu họ đang nói gì, nhưng không hứng thú lắm. Giống như là nghe trộm một cuộc nói chuyện giữa hai người lạ về một người phụ nữ mà cô không quen biết. Cô không muốn thức dậy. Cô cũng không ý thức được rằng mình đang ngủ.

“Ali? Em nghe thấy anh không?”

“Mẹ ơi, con nè, Lydia nè, mẹ thức dậy được không?”

Cô gái tên là Lydia nói về việc gọi bác sĩ. Người đàn ông được gọi là bố nói về việc để người phụ nữ tên Ali ngủ thêm một lát. Họ bàn về việc gọi thức ăn Mexico và cùng ăn tối ở nhà. Có lẽ mùi thức ăn trong nhà sẽ đánh thức người phụ nữ tên Ali dậy. Sau đó, các giọng nói ngừng đi. Mọi thứ lại tăm tối và tĩnh lặng.

CÔ BƯỚC XUỐNG CON ĐƯỜNG phủ cát dẫn đến khu rừng xanh um, băng qua hàng loạt những đoạn đường quanh co dẫn ra khỏi khu rừng đưa đến một vách đá cao lớn hùng vĩ. Cô tiến tới bờ vực và nhìn xuống. Biển phía bên dưới đông đặc, bờ biển bị chôn vùi dưới hàng đống tuyết tích tụ lại. Toàn cảnh trước mắt cô bất động, không màu sắc, tĩnh mịch đến bất thường. Cô gào lên gọi John, nhưng cổ họng cô không phát ra được một âm thanh nào. Cô quay lui định về lại, nhưng con đường và cánh rừng đã biến mất. Cô nhìn xuống mắt cá chân tím tái xương xẩu và đôi bàn chân trần của cô. Không còn lựa chọn nào, cô buộc phải bước xuống vách đá.

ALICE NGỒI XUỐNG GHẾ DỰA ngoài bãi biển và vùi chân xuống rồi nhấc lên khỏi lớp cát mịn ấm áp. Ngắm nhìn Christina – cô bạn thân nhất ở nhà trẻ của cô đang thả một con diều bươm bướm, cô ấy vẫn chỉ mới lên năm. Những bông hoa cúc màu hồng và vàng in trên đồ bơi của Christina, đôi cánh xanh và tím của diều bươm bướm, màu xanh của bầu trời, mặt trời vàng cam và màu sơn móng tay đỏ bóng loáng của cô, mọi màu sắc trước mắt cô thật sự rực rỡ hơn bất cứ thứ gì cô từng thấy. Dõi theo Christina, cô ngập tràn niềm vui và tình cảm, không hẳn là vì người bạn thời thơ ấu của cô, mà vì những màu sắc rực rỡ choáng ngợp trên đồ bơi và con diều của cô ấy.

Chị của cô, Anne, và Lydia đều khoảng mười sáu tuổi. Họ nằm cạnh nhau trên những tấm khăn đi biển sọc đỏ, trắng và xanh. Làn da ngăm đen bóng của họ cùng với bộ bikini màu hồng giống màu bong bóng kẹo cao su sáng lên dưới ánh nắng. Và họ cũng vậy, họ sáng loáng những màu sắc như phim hoạt hình, đầy mê hoặc.

“Sẵn sàng chưa?” – John hỏi.

“Em hơi sợ đấy.”

“Bây giờ hoặc không bao giờ.”

Cô đứng đó, anh thắt bộ dây đai an toàn vào người cô và gắn vào cái dù lượn màu cam. Anh nhấn vào các khóa và điều chỉnh tới khi cô cảm thấy an toàn tuyệt đối. Anh giữ vai cô, đè lại trước sức mạnh vô hình chuẩn bị nâng bổng cô lên.

“Chuẩn bị chưa?” – John hỏi lại lần nữa.

“Rồi.”

Anh thả cô ra, và cô bay vút vào trong nền trời với một tốc độ đủ gây phấn khích. Mỗi cơn gió cô lướt qua là một luồng xoáy màu sắc đầy kinh ngạc hòa trộn những màu xanh lơ, màu tía hoa dừa cạn, màu tím oải hương, màu tím hoa lồng đèn. Đại dương bên dưới pha ra những sắc màu kính vạn hoa của xanh Thổ Nhĩ Kỳ, xanh nước biển và tím.

Con diều của Christina đứt dây và đập cánh ngay bên cạnh cô. Đây là điều tuyệt diệu nhất Alice từng thấy, và cô muốn được cảm nhận lâu hơn nữa, hơn mọi thứ cô từng khát khao có được. Cô với tay tóm lấy dây diều, nhưng một luồng không khí mạnh đột ngột hất cô xoay vòng. Cô nhìn lại, nhưng con diều đã mất hút trong màu cam hoàng hôn chói lòa trên dù lượn của cô. Đến giờ cô mới nhận ra cô không lái được. Cô nhìn xuống đất, nhìn thấy gia đình cô như những điểm nhấp nháy. Cô không biết liệu những cơn gió xinh đẹp và nồng nhiệt này có mang cô về lại chỗ gia đình mình.

LYDIA NẰM CUỘN MÌNH BÊN CẠNH ALICE. Căn phòng ngập tràn ánh sáng nhẹ dịu của ban ngày.

“Mẹ đang mơ hả?” – Alice hỏi.

“Không, mẹ dậy rồi.”

“Mẹ ngủ bao lâu rồi?”

“Vài ngày rồi mẹ.”

“Ôi không, mẹ xin lỗi.”

“Ổn rồi mẹ. Nghe tiếng mẹ con mừng quá. Mẹ có nhớ là mẹ uống thuốc nhiều quá không?”

“Mẹ không nhớ. Có thể là vậy. Mẹ không cố ý.”

“Con thấy lo cho mẹ.”

Alice nhìn Lydia từng chút một, cẩn thận ghi nhớ từng đường nét của con gái. Cô nhận ra từng góc cạnh ấy như người ta nhận ra căn nhà họ đã sống và lớn lên, nhận ra giọng nói của bố mẹ họ, nhận ra từng đường chỉ tay của họ một cách rõ ràng mà không cần phải cố gắng hay chú tâm nghiền ngẫm. Nhưng lạ thay, cô phải khó khăn lắm mới nhận ra được Lydia một cách hoàn chỉnh.

“Con xinh thật” – Alice nói. – “Mẹ rất sợ nhìn thấy con mà không nhận ra được.”

“Con nghĩ là dù một ngày nào đó mẹ không còn biết con là ai thì mẹ vẫn biết là con yêu mẹ.”

“Nếu mẹ nhìn con mà không biết con là con gái của mẹ, và mẹ cũng không biết con yêu mẹ?”

“Vậy thì con sẽ nói rằng con yêu mẹ, và mẹ sẽ tin con.”

Alice thích cuộc nói chuyện như vậy. Nhưng liệu cô có luôn yêu thương Lydia. Liệu tình cảm dành cho Lydia có ở mãi trong đầu hay trong tim cô? Nhà khoa học trong cô tin rằng, cảm xúc được hình thành nên ở vận mạch phức tạp của thùy viền, nơi những mạch máu mà đối với cô lúc này đang tắc nghẽn theo dòng cuộc chiến mà chắc chắn rằng chẳng ai sống sót được. Còn người mẹ trong cô tin rằng, tình yêu cô dành cho đứa con gái của mình sẽ an toàn trước những thương tổn trong trí nhớ cô, bởi tình yêu ấy vốn nằm trong tim cô.

“Mẹ sao rồi?”

“Không ổn lắm. Kỳ này khá là khó khăn, không có công việc, không đến Harvard, bệnh thì vẫn tiến triển, bố con chẳng mấy khi ở nhà. Mọi thứ quá khó khăn.”

“Con xin lỗi. Con ước con có thể ở đây nhiều hơn. Mùa thu tới con sẽ ở gần đây hơn. Con đã nghĩ về chuyện chuyển về, nhưng con vừa được nhận thử vai trong một vở lớn. Cũng là vai nhỏ thôi nhưng…”

“Không sao mà. Mẹ ước mẹ có thể xem con nhiều hơn, nhưng mẹ không bao giờ để con dừng sống cuộc sống của con vì mẹ được.”

Cô nghĩ về John.

“Bố con muốn chuyển về New York. Bố nhận được đề nghị ở Sloan-Kettering.”

“Con biết. Con có ở đó lúc bố nói về chuyện này.”

“Mẹ không muốn đi.”

“Con cũng nghĩ là mẹ không muốn.”

“Mẹ không đi khỏi đây được. Cặp song sinh sẽ ra đời vào tháng Tư.”

“Con mong được thấy mấy đứa nhỏ quá.”

“Mẹ cũng vậy.”

Alice tưởng tượng ra cảnh được bế chúng trong vòng tay, cơ thể ấm áp của chúng, những ngón tay tí hon co lại, đôi bàn chân mũm mĩm chưa bao giờ bước đi, và đôi mắt tròn nằm trong bọng mắt của chúng. Và mùi em bé. Cô mong được ngửi mùi những đứa cháu ngoại của mình.

Hầu hết những người làm ông, bà đều phấn khích khi tưởng tượng ra cuộc sống của cháu mình, họ mong chờ được tham dự những buổi diễn, những bữa tiệc sinh nhật, lễ tốt nghiệp và đám cưới. Cô biết cô sẽ không đợi được đến những buổi diễn của cháu mình, hay tiệc sinh nhật, lễ tốt nghiệp và đám cưới. Nhưng cô sẽ ở đây đến lúc được ẵm chúng trong tay và ngửi mùi em bé, và nếu như cô phải ngồi một mình đâu đó ở New York thì thật đau khổ biết bao.

“Malcolm thế nào?”

“Ổn mẹ. Bọn con vừa tham gia chương trình Memory Walk ở Los Angeles cùng nhau.”

“Cậu ta thế nào?”

Lydia cười trước khi cô hỏi xong câu hỏi.

“Anh ấy cao, thích ra ngoài, mà hơi mắc cỡ.”

“Đối với con thì sao?”

“Anh ấy dịu dàng. Anh ấy thích sự thông minh của con, anh ấy tự hào vì con đi diễn. Anh ấy kể về con nhiều lắm, ngượng thật. Mẹ sẽ thấy thích anh ấy.”

“Còn đối với cậu ấy con ra sao?”

Lydia suy nghĩ chốc lát như là cô chưa nghĩ về câu hỏi đó bao giờ.

“Vẫn là chính con.”

“Tốt rồi.”

Alice cười và siết chặt tay Lydia. Cô đã nghĩ sẽ hỏi Lydia về việc đó có ý nghĩa như thế nào, để Lydia có thể tự mô tả bản thân, để nhắc cô nhớ lại, nhưng suy nghĩ ấy bốc hơi quá nhanh để kịp nói ra.

“Chúng ta đang nói về việc gì?” – Alice hỏi.

“Malcolm, chương trình Memory Walk? New York?” – Lydia hỏi lại để gợi ý cho mẹ.

“Mẹ đi bộ quanh đây, mẹ cảm thấy an toàn. Mặc dù mẹ mất chút thời gian đi vòng vòng nhưng cuối cùng mẹ cũng thấy được gì đó quen thuộc và có đủ người trong các cửa hàng biết mẹ và họ chỉ mẹ đi đúng hướng. Cô gái ở quán Jerri’s lúc nào cũng để mắt đến ví và chìa khóa giúp mẹ.

“Và mẹ có những người bạn trong nhóm hỗ trợ ở đây. Mẹ cần họ. Giờ mẹ không thể nạp New York vào đầu được. Mẹ sẽ mất luôn chút khả năng tự lập ít ỏi mà mẹ đang có. Một công việc mới. Bố con sẽ làm việc suốt. Mẹ sẽ mất ông ấy luôn.”

“Mẹ à, mẹ phải nói hết cho bố.”

Lydia nói đúng, nhưng nói với cô thì dễ hơn nhiều. “Lydia, mẹ tự hào về con.”

“Cám ơn mẹ.”

“Trong trường hợp mẹ quên, con hãy biết rằng mẹ yêu con.”

“Con cũng yêu mẹ.”

“EM KHÔNG MUỐN ĐI NEW YORK” – Alice nói.

“Từ giờ đến lúc đó còn cả một quãng đường dài, chúng ta chưa phải quyết định ngay bây giờ” – John nói.

“Em muốn quyết định ngay bây giờ. Em đang quyết định. Em muốn rõ ràng về chuyện này trong khi em còn có thể. Em không muốn chuyển đến New York.”

“Nếu Lydia ở đó thì sao?”

“Còn nếu con bé không ở đó? Lẽ ra anh phải bàn riêng với em trước khi thông báo cho các con chứ.”

“Anh đã bàn rồi.”

“Không, anh chưa.”

“Có, anh nói nhiều lần rồi.”

“Ồ, vậy là do em không nhớ phải không? Hay thật.”

Cô hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng, để cho một lúc bình tĩnh kéo cô ra khỏi cuộc tranh cãi kiểu học sinh tiểu học đang cuốn họ vào.

“John, em biết là anh sẽ gặp những người ở Sloan-Kettering, nhưng em sẽ không bao giờ hiểu được rằng họ lại dụ dỗ anh vào một vị trí trong năm tới. Em sẽ lên tiếng nếu em biết về chuyện này.”

“Anh đã nói em nghe vì sao anh đến đó rồi.”

“Được rồi. Họ có thể để anh đi nghiên cứu một năm rồi bắt đầu vào tháng Chín sau đó một năm không?”

“Không, họ cần ai đó ngay bây giờ. Khó mà thương lượng với họ quá đáng vậy được, anh còn cần thời gian để hoàn tất vài thứ ở phòng nghiên cứu ở đây nữa.”

“Họ có thể thuê ai tạm thời, để anh đi nghiên cứu một năm với em, rồi anh về đảm nhiệm công việc sau không?”

“Không.”

“Anh từng yêu cầu họ thử chưa?”

“Nghe này, cạnh tranh trong lĩnh vực này hiện tại rất căng, mọi thứ phát triển rất nhanh. Bọn anh đang ở ngưỡng cửa của những phát kiến vĩ đại. Ý anh là bọn anh đang gõ cửa đi vào phương pháp chữa trị ung thư đấy. Các công ty dược rất có hứng thú. Và tất cả những lớp học và những thứ quan liêu vớ vẩn ở Harvard chỉ làm anh chậm lại thôi. Nếu anh không nắm lấy cơ hội này, anh có thể sẽ làm hỏng tác phẩm duy nhất của anh trong việc tìm ra thứ gì thật sự có ý nghĩa.”

“Đây không phải là tác phẩm duy nhất của anh. Anh xuất sắc, anh không mắc bệnh Alzheimer. Anh sẽ còn nghiên cứu ra vô vàn thứ.”

Anh nhìn cô mà không nói gì.

“Năm tới đây mới là năm duy nhất còn lại của em, John, không phải của anh. Năm tới đây sẽ là cơ hội cuối cùng để em sống cuộc đời mình và biết được rằng nó có ý nghĩa với em. Em không nghĩ em sẽ còn nhiều thời gian được làm chính mình, và em muốn dành thời gian đó với anh, và em không tin được anh không muốn dành ra khoảng thời gian đó bên nhau.”

“Anh sẽ dành ra mà. Chúng ta sẽ ở bên nhau.”

“Vớ vẩn, anh biết rõ mà. Cuộc sống của chúng ta ở đây. Tom và Anna và hai đứa bé, rồi còn Mary, Cathy và Dan, và có thể cả Lydia nữa. Nếu anh nhận công việc, anh sẽ làm việc suốt, anh cũng biết trước rồi, và em sẽ phải cô đơn. Anh quyết định như vậy đâu có cân nhắc gì việc ở bên em, và mọi thứ còn lại của em sẽ mất hết thôi. Em không theo đâu.”

“Anh không làm việc suốt đâu, anh hứa đấy. Và nếu Lydia sống ở New York thì sao? Nếu em đến ở với Anna và Charlie một tuần mỗi tháng thì sao? Luôn có cách giải quyết để em không cô đơn.”

“Còn nếu Lydia không ở New York thì sao? Nếu con bé ở Brandeis?”

“Đó là lý do tại sao anh muốn em đợi sau này rồi quyết định, khi nào chúng ta có thêm thông tin ấy.”

“Em muốn anh chọn một năm nghiên cứu.”

“Alice à, quyết định dành cho anh không phải là ‘nhận vị trí ở Sloan’ hay ‘chọn một năm nghiên cứu mà là nhận vị trí ở Sloan’ hay ‘tiếp tục ở lại Harvard.’ Năm tới anh không nghỉ được.”

Hình ảnh anh mờ đi vì cơ thể cô rung lên và nước mắt tràn ra trong cơn giận.

“Không không chịu được nữa đâu! Làm ơn đi! Em không thể tiếp tục mà không có anh! Anh có thể nghỉ một năm. Nếu anh muốn, anh có thể. Em muốn anh nghỉ.”

“Nếu như anh từ chối, anh nghỉ một năm, và em thậm chí chẳng còn biết anh là ai nữa thì sao?”

“Nếu em biết thì sao, nhưng năm sau đó em không còn biết nữa? Sao anh có thể nghĩ đến cả việc dành ra thời gian còn lại của chúng ta cho cái phòng nghiên cứu vớ vẩn của anh? Em sẽ không bao giờ làm vậy với anh.”

“Anh sẽ không bao giờ yêu cầu em làm vậy.”

“Anh không cần phải yêu cầu.”

“Anh không nghĩ anh có thể làm được, Alice. Anh xin lỗi, anh chỉ không nghĩ là anh có thể chọn việc ở nhà cả năm, chỉ ngồi nhìn căn bệnh cướp em đi. Anh không thể chọn việc nhìn em xoay sở không biết mặc quần áo thế nào, không biết sử dụng tivi thế nào nữa. Nếu anh ở phòng nghiên cứu, anh không phải nhìn em dán giấy ghi chú khắp các tủ và cửa. Anh không thể ở nhà và nhìn em trầm trọng hơn được. Anh chết mất.”

“Không, John, anh không chết, mà là em. Em đang trầm trọng hơn, cho dù anh ở nhà nhìn em, hay trốn ở phòng thí nghiệm. Anh cũng dần mất em. Em cũng đang đánh mất chính mình. Nhưng nếu anh không dành ra năm tới ở bên em, sau đó, chúng ta sẽ mất anh trước. Em mắc Alzheimer. Anh còn muốn biện hộ cái quái gì nữa?”

CÔ LÔI HẾT LON, HỘP VÀ chai, ly, đĩa và chén, chậu và chảo. Cô dồn tất cả mọi thứ lên bàn bếp, và khi đã hết chỗ, cô tận dụng cả sàn nhà.

Cô lấy từng chiếc áo khoác ra khỏi tủ hành lang, kéo khóa và lộn túi áo ra ngoài. Cô tìm được tiền, cuống vé, khăn giấy và chẳng có gì khác. Sau cuộc lục soát triệt để, cô thả chiếc áo khoác vô tội xuống sàn nhà.

Cô lật mấy chiếc gối xuống khỏi ghế sofa và ghế bành. Cô dọn hết bàn làm việc, ngăn kéo và tủ. Cô dốc ra hết mọi thứ trong giỏ đi làm, giỏ đựng máy tính xách tay và cả cái giỏ nhỏ của cô. Cô lùa những ngón tay qua đống đồ đạc, chạm vào từng món bằng các ngón tay của cô để nhẩm lại tên của từng vật trong đầu. Chẳng có gì cả.

Cuộc tìm kiếm của cô không buộc cô phải nhớ những nơi cô đã xem qua. Cả một đống những thứ được lôi ra như dấu vết cho những khu vực được cô khai quật. Sau cuộc tìm kiếm, các đồ vật bao phủ hoàn toàn sàn tầng một. Cô đẫm mồ hôi, phấn khích. Cô chưa bỏ cuộc. Cô lao lên lầu.

Cô lục lọi giỏ đồ giặt, bàn đầu giường, ngăn tủ quần áo, tủ trong phòng ngủ, hộp trang sức của cô, tủ vải, tủ thuốc. Phòng tắm dưới lầu. Cô lại chạy xuống tầng dưới, đẫm mồ hôi, phấn khích.

John đứng trên hành lang, quần áo ngập đến mắt cá chân anh. “Cái quái gì đang xảy ra đây?” – Anh hỏi.

“Em đang kiếm một thứ.”

“Gì cơ?”

Cô không gọi tên nó được, nhưng cô tin rằng đâu đó trong đầu cô, cô nhớ và biết nó.

“Em sẽ biết khi mà em tìm ra nó.”

“Ở đây thảm họa hoàn toàn rồi. Trông như nhà chúng ta vừa bị trộm.”

Cô chưa nghĩ về việc ấy. Có thể đó là lý do cô không thể tìm ra.

“Ôi Chúa ơi. Có khi ai đó lấy cắp nó mất rồi.”

“Chúng ta chưa bị trộm, mà em vừa phá tan hoang căn nhà đấy.”

Cô chỉ vào cái rổ tạp chí bên cạnh ghế sofa trong phòng khách. Cô để mặc John cùng với lý thuyết về kẻ trộm ở lại hành lang, cô nhấc cái rổ nặng lên, dốc hết tạp chí ra sàn nhà, lật qua hết chúng và rồi lại bước đi. John bước theo cô.

“Dừng lại Alice, em còn không biết em tìm cái gì.”

“Có, em biết.”

“Thế thì em tìm gì?”

“Em không nói được.”

“Nó trông thế nào, dùng vào việc gì?”

“Em không biết, em nói anh rồi. Em sẽ biết khi mà em tìm ra nó. Em phải tìm, không thì em chết mất.”

Cô nghĩ về điều cô vừa nói.

“Thuốc của em đâu?”

Họ bước vào nhà bếp, luồn chân vào đống hộp ngũ cốc, lon súp và cá hồi. John tìm ra rất nhiều lọ thuốc và vitamin của cô trên sàn và hộp chia thuốc đặt trong một cái chén trên bàn bếp.

“Chúng đây rồi” – anh nói.

Sự khẩn cấp giống như nhu cầu sống còn vẫn không tan đi.

“Không, không phải đâu.”

“Điên thật. Em phải dừng lại. Nhà mình ngập rác rồi.”

Rác.

Cô mở máy hút bụi, lôi túi nilon ra và đặt nó xuống.

“Alice!”

Cô luồn các ngón tay của cô qua đống vỏ bơ, mỡ gà nhầy nhụa, khăn giấy và giấy vệ sinh đã vò cục, các hộp giấy rỗng và giấy gói, và những thứ rác rưởi gì đó khác. Cô nhìn thấy đĩa DVD Alice Howland. Cô cầm cái vỏ đĩa ướt nhớp nháp trên tay, nghiền ngẫm. Mình không định vứt nó đi.

“Đây rồi, chắc chắn phải là nó” – John nói. – “Anh mừng vì em tìm được nó.”

“Không, không phải luôn.”

“Được rồi, làm ơn đi, rác đầy trên sàn rồi. Dừng lại đi, hãy ngồi xuống, thư giãn. Em đang phát điên. Có lẽ nếu em dừng lại và thư giãn, nó sẽ tự động hiện ra thôi.”

“Được rồi.”

Có lẽ, nếu cô ngồi yên, cô sẽ nhớ ra nó là cái gì và cô để nó ở đâu. Hoặc có lẽ, cô thậm chí sẽ quên luôn cô đang tìm thứ gì đó.

NHỮNG BÔNG TUYẾT ĐÃ RƠI TỪ HÔM QUA VÀ ngập lên chừng nửa mét bao phủ gần hết New England cũng đã ngừng rơi. Cô có lẽ không chú ý gì khác ngoài tiếng rít của thanh gạt nước mưa gạt qua lại trên ô kính trước vừa mới khô. John tắt gạt nước. Đường đã được dọn, nhưng xe của họ là chiếc duy nhất trên đường. Alice luôn thích sự yên bình trong trẻo và vẻ tĩnh mịch sau một cơn bão tuyết dữ dội, nhưng hôm nay, quang cảnh ấy đang làm cô bồn chồn.

John lái xe vào khu nghĩa trang Mount Auburn. Không gian khiêm tốn để đậu xe đã được dọn bớt tuyết, nhưng khu nghĩa trang, đường đi vào và bia mộ vẫn còn ngập trong tuyết.

“Anh đã lo rằng mọi thứ vẫn như thế này. Phải để lúc khác quay lại thôi” – anh nói.

“Không, khoan đã. Để em xem một phút thôi.”

Cây cổ thụ đen ngòm vươn ra những cành khúc khuỷu dài ngoằng phủ đầy băng tuyết trắng tinh ngự trị vùng đất mùa đông kỳ diệu này. Cô có thể nhìn thấy một vài thứ có vẻ như là đỉnh của những tấm bia cao, cầu kỳ của những người lúc còn sống rất giàu có và uy quyền ngoi lên mặt tuyết, nhưng thực tế đúng là vậy. Mọi thứ khác đều bị chôn vùi. Những thân thể mục rữa được vùi trong những cỗ quan tài, những cỗ quan tài được chôn dưới đất đá, đất đá được phủ lên bởi tuyết. Mọi thứ chỉ có trắng và đen, đóng băng và chết.

“John?”

“Sao?”

Cô gọi tên anh thật lớn, đột nhiên phá tan sự tĩnh lặng khiến anh giật mình.

“Không có gì. Chúng ta đi được rồi. Em không muốn ở đây.”

“CHÚNG TA CÓ THỂ QUAY LẠI ĐÂY trong tuần nếu em muốn” – John nói.

“Quay lại đâu?” – Alice hỏi anh.

“Nghĩa trang.”

“Ồ.”

Cô ngồi vào bàn bếp. John rót rượu vang đỏ vào hai chiếc ly thủy tinh rồi đưa cô một ly. Cô lắc nhẹ ly rượu theo thói quen. Cô vẫn thường xuyên quên tên con gái cô, đứa con gái làm diễn viên của cô, nhưng cô lại có thể nhớ cách lắc ly rượu vang và nhớ được là cô thích làm vậy. Căn bệnh điên khùng. Cô thích chuyển động xoáy tròn của rượu trong ly, màu đỏ máu của rượu, hương vị đậm đà của nho, gỗ sồi và đất, và cảm giác âm ấm khi rượu chảy xuống bụng cô.

John đứng trước tủ lạnh đang mở và lấy ra một khối pho-mát, một quả chanh, một thứ dung dịch đậm gia vị và một vài thứ rau củ màu đỏ.

“Món gà sốt enchilada thì sao?” – Anh hỏi cô.

“Được đấy.”

Anh mở ngăn đá và lục tìm bên trong.

“Chúng ta còn miếng thịt gà nào không nhỉ?” – Anh hỏi.

Cô không trả lời gì.

“Ôi không, Alice.”

Anh quay sang để cho cô xem một thứ gì đó trong tay anh. Đó không phải gà.

“Đó là chiếc BlackBerry của em, nó ở trong ngăn đá.” – Anh nhấn các nút, lắc nó và lau chùi nó.

“Có vẻ như bị vào nước rồi, chúng ta có thể kiểm tra sau khi nó rã đông, nhưng anh nghĩ nó tiêu rồi” – anh nói.

Trên mắt cô tuôn ra dòng nước mắt đau khổ đến tận tim gan.

“Ổn rồi mà. Nếu nó hỏng, chúng ta sẽ mua cho em một cái mới.”

Nực cười làm sao, làm sao mình có thể buồn vì một thiết bị sắp xếp công việc bị hỏng? Có lẽ cô thật sự khóc vì mẹ cô, chị cô và bố cô đã qua đời. Có lẽ cô cảm thấy được cảm xúc đã dâng lên trong cô lúc ở nghĩa trang nhưng cô không bộc lộ rõ được. Như vậy nghe có lý hơn. Nhưng chuyện không phải vậy. Có lẽ chiếc máy hỏng tượng trưng cho công việc của cô ở Harvard kết thúc, và cô đang tưởng niệm sự kết thúc cho sự nghiệp của mình. Vậy nghe cũng có lý. Nhưng cái mà cô cảm thấy là một nỗi đau không thể nguôi ngoai vì đơn thuần là chiếc BlackBerry đã hỏng.