- 19 - THÁNG HAI, NĂM 2005
Cô ngồi phịch xuống ghế bành cạnh John, đối diện bác sĩ Davis, cảm giác cô ngán ngẩm và đầu óc cô mệt đừ rồi. Cô đã thực hiện hàng loạt các bài kiểm tra tâm lý thần kinh trong căn phòng nhỏ bé với người phụ nữ ấy, người vẫn thường ở trong căn phòng tí hon đảm nhiệm các bài kiểm tra tâm lý học thần kinh dài đến đau khổ. Những từ ngữ, thông tin, ý nghĩa của những câu mà người phụ nữ kia hỏi và câu trả lời của Alice giống như bong bóng xà phòng, loại bọn trẻ vẫn hay thổi bằng những que thổi bằng nhựa trong một ngày nhiều gió. Chúng trôi xa khỏi cô nhanh chóng và theo những hướng loạn xạ, phải căng mắt tập trung mới dõi theo được. Và dù cho cô có cố gắng để thực sự giữ được một số trong tầm mắt, chúng cũng nhanh chóng vỡ tan! Chúng tan đi, biến mất chẳng có nguyên nhân rõ ràng nào, như thể chúng chưa bao giờ tồn tại. Và giờ đến lượt bác sĩ Davis cầm que thổi.
“Được rồi, Alice, cô có thể đánh vần ngược từ water không?” – Anh hỏi cô.
Sáu tháng trước, cô thường cảm thấy câu hỏi này tầm thường và thậm chí xúc phạm, nhưng hôm nay, nó trở thành một câu hỏi nghiêm túc và cô phải gắng sức đương đầu với nó. Cô chỉ cảm thấy hơi ngại và xấu hổ với nó, không như sáu tháng trước, cô cảm thấy lo lắng và nhục nhã vì câu hỏi. Dần dần, cô cảm nhận khoảng cách giữa cô và ý thức về bản thân của cô ngày càng xa. Cảm giác của cô về Alice, về những gì cô biết và cô hiểu, những gì cô thích và ghét, những gì cô biết và những gì cô tin cũng như bong bóng xà phòng vậy. Chúng cứ thế bay cao hơn lên trời và khó xác định hơn, chẳng có gì ngoài lớp màng không thể mỏng hơn bảo vệ chúng khỏi vỡ tan trong không khí.
Alice nhẩm đánh vần xuôi từ nước trước, cô xòe bốn ngón tay trái ra, gán vào mỗi ngón tay một chữ cái, bắt đầu bằng chữ “R”. Cô gập ngón tay lại. Cô đánh vần xuôi lại một lần, dừng lại ở ngón đeo nhẫn, rồi cũng gập ngón tay ấy xuống.
“E.” – Cô làm lại y hệt.
“T.” – Cô chĩa ngón cái và ngón trỏ lên như giả làm súng. Cô đọc thầm – “A.”
“W”
Cô cười, tay trái cô nắm lại, giơ nắm tay ra như biểu tượng chiến thắng, cô nhìn sang John. Anh xoay xoay chiếc nhẫn cưới và gượng cười.
“Tốt lắm” – bác sĩ Davis nói. Anh cười rất tươi và tỏ ra ấn tượng. Alice thích như vậy.
“Giờ, tôi muốn cô hãy chỉ vào cửa sổ sau khi cô chạm tay trái vào má phải.”
Cô nâng tay trái lên mặt. Bốp!
“Tôi xin lỗi, anh có thể nói lại hướng dẫn cho tôi không?” – Alice hỏi, tay trái cô vẫn trong tư thế sẵn sàng trước mặt.
“Dĩ nhiên” – bác sĩ Davis khéo léo tỏ ra thân thiện, giống như một bậc phụ huynh tha cho con mình việc lén nhìn con chủ bài trong một ván bài hay nhích lên vạch xuất phát một chút trước khi hô ‘bắt đầu’.
“Chạm tay trái vào má phải rồi chỉ vào cửa sổ.”
Tay trái cô chạm vào má phải trước khi anh nói xong, cô vung thẳng tay phải về phía cửa sổ nhanh nhất có thể và thở ra thật mạnh.
“Tốt lắm, Alice” – bác sĩ Davis cười và nói.
John không tán dương, không tỏ ra chút bằng lòng hay tự hào. “Được rồi, giờ tôi muốn cô nhắc lại tên và địa chỉ tôi đã yêu cầu cô nhớ trước đó.”
Tên và địa chỉ. Cô chỉ còn chút cảm giác mơ hồ về nó, giống như cảm giác thức dậy sau một giấc ngủ dài cả đêm và biết rằng cô chỉ mơ thôi, thậm chí có lẽ cô biết là giấc mơ về một chuyện cụ thể, nhưng dù cô có ráng nhớ lại cỡ nào, những chi tiết về giấc mơ cũng tan biến. Biến mất mãi mãi.
“Là John gì đó. Lần nào anh cũng hỏi tôi, và tôi chẳng bao giờ nhớ được anh chàng này sống ở đâu.”
“Được rồi, hãy đoán nào. Là John Black, John White, John Jones, hay John Smith?”
Cô hoàn toàn không có chút khái niệm gì nhưng cô không hứng thú chơi tiếp.
“Smith.”
“Anh ta sống ở đường East, đường West, đường South, hay đường North?”
“Đường South.”
“Là thị trấn Arlington, Cambridge, Brighton, hay Brookline?”
“Brookline.”
“Được rồi, Alice, câu hỏi cuối cùng, tờ hai mươi đô của tôi ở đâu?”
“Trong ví của anh?”
“Không, trước đó, tôi có giấu một tờ hai mươi đô trong căn phòng, cô có nhớ tôi để nó ở đâu không?”
“Anh giấu nó lúc tôi ở trong phòng hả?”
“Phải. Cô có nghĩ ra chút gì không? Cô sẽ được giữ tờ tiền nếu cô tìm ra.”
“Chà, nếu biết, tôi hẳn đã nghĩ cách để ghi nhớ nó.”
“Tôi chắc là cô có biết. Cô nhớ được chút gì không?”
Cô nhìn thấy sự tập trung ánh mắt của anh hướng về bên phải của cô, chỉ lệch lên trên vai cô một chút trong chốc lát rồi quay lại tập trung vào cô. Cô xoay người lại. Đằng sau cô là một tấm bảng trắng treo trên tường có ba từ được viết bằng bút dạ đỏ: Glutamate. LTP. Chết rụng tế bào. Bút dạ đỏ đặt trên khay ở cuối bảng, ngay bên cạnh là tờ bạc hai mươi đô gấp lại. Cô phấn khởi bước đến chỗ tấm bảng và giành lấy giải thưởng của mình.
Bác sĩ Davis cười. “Nếu bệnh nhân nào của tôi cũng thông minh như cô thì tôi sạt nghiệp mất.”
“Alice, em không lấy tờ tiền đó được, em thấy anh ấy nhìn nó rồi” – John nói với cô.
“Em thắng được mà” – Alice nói.
“Không sao đâu, cô ấy tìm được nó” – bác sĩ Davis nói.
“Sau một năm có dùng thuốc mà cô ấy vẫn ra như vậy sao?” – John hỏi.
“Có lẽ có một vài vấn đề đang diễn ra. Có thể cô ấy đã phát bệnh từ lâu trước khi được chẩn đoán hồi tháng Một năm trước. Bản thân cô ấy, cả anh, gia đình anh và đồng nghiệp của cô ấy có thể không chú ý đến các triệu chứng xảy ra ngẫu nhiên, mà chỉ xem các triệu chứng này là bình thường hoặc cho rằng do cô ấy căng thẳng mà ngủ không đủ giấc, rồi lại cứ chìm trong căng thẳng và cứ thế mãi. Việc này có thể đã diễn ra dễ dàng trong một hai năm hay lâu hơn nữa.
Và cô ấy thông minh hơn người. Nói đơn giản là, nếu một người bình thường có mười khớp thần kinh dẫn đến một mẩu thông tin, Alice dễ phải có đến năm mươi. Khi một người bình thường mất đi mười khớp thần kinh đó, người đó sẽ không thể truy cập vào mẩu thông tin nữa, và họ sẽ quên. Nhưng Alice có thể mất mười khớp đó và vẫn còn bốn mươi khớp khác để nhớ được. Vậy nên ban đầu những suy giảm bên trong không được phát hiện một cách thấu đáo và cụ thể.”
“Nhưng giờ thì cô ấy mất nhiều hơn mười rồi” – John nói.
“Phải, tôi e là vậy. Trí nhớ ngắn hạn của cô ấy giờ đã thấp hơn ba phần trăm so với ngưỡng của những người có thể hoàn thành các bài kiểm tra, khả năng ngôn ngữ của cô ấy đã giảm đáng ngại và cô ấy đang mất dần ý thức bản thân, đúng với tất cả những gì chúng ta không may buộc phải chứng kiến.
“Nhưng cô ấy vẫn linh hoạt đến không ngờ đấy. Cô ấy dùng nhiều phương pháp rất sáng tạo để trả lời các câu hỏi một cách chính xác mà thực tế cô ấy chẳng nhớ được.”
“Nhưng chưa kể nhiều câu hỏi cô ấy không trả lời được” – John nói.
“Phải, thực tế là vậy.”
“Căn bệnh trở nên trầm trọng nhanh quá. Chúng ta có thể tăng liều lượng một trong hai loại thuốc Aricept hay Namenda không?” – John hỏi.
“Không, cả hai loại cô ấy đều dùng liều tối đa rồi. Không may, đây là căn bệnh luôn tiến triển trầm trọng thêm mà không chữa được. Căn bệnh sẽ tệ hơn cho dù chúng ta dùng thuốc gì đi nữa.”
“Và rõ ràng rằng dù cô ấy dùng giả dược hay Amylix cũng không có tác dụng” – John nói.
Bác sĩ Davis im lặng như thể không biết phải phản đối hay tán thành ý kiến của John.
“Tôi biết là anh thấy nản. Nhưng tôi thường thấy nhiều giai đoạn bình ổn không ngờ, lúc đó căn bệnh sẽ được kìm lại và duy trì một thời gian.”
Alice nhắm mắt, hình dung ra bản thân cô đang đứng vững chãi trên một bình nguyên. Một đỉnh núi bằng phẳng. Cô có thể thấy được bình nguyên ấy, thật đáng kỳ vọng. John có thể thấy được nó không? Liệu anh có thể giữ hi vọng nơi cô, hay anh đã từ bỏ rồi? Hay tệ hơn nữa, anh đang hi vọng cô suy sụp hơn nữa, không còn nhớ được gì nữa và nghe lời anh, để anh có thể đưa cô đến New York vào mùa thu? Anh sẽ chọn cùng cô đứng trên bình nguyên, hay đẩy cô xuống dốc?
Cô khoanh tay, buông đôi chân đang vắt chéo, đặt cả hai bàn chân xuống sàn.
“Alice, cô còn chạy bộ không?” – Bác sĩ Davis hỏi cô.
“Không, tôi ngưng một thời gian rồi. Vừa vì lịch làm việc của John, vừa vì cơ thể tôi hoạt động không thống nhất mấy. Tôi dường như không thể thấy được lề đường hay những gờ trên đường, và tôi không ước lượng được khoảng cách. Tôi ngã khá nặng vài lần. Ngay cả khi ở nhà, tôi vẫn quên về thứ gì đó được nâng lên ở các cửa ra vào, và vào phòng nào tôi cũng vấp. Tôi có cả đống vết bầm.”
“Được rồi, John, nếu là tôi thì tôi sẽ gỡ hết mấy cái gì đó ở cửa ra vào hoặc sơn màu nổi lên, màu gì đó thật sáng, hoặc dán băng keo màu sáng, như vậy Alice sẽ chú ý đến. Còn không thì phải sửa cho bằng với sàn nhà.”
“Được.”
“Alice, hãy kể tôi nghe về nhóm hỗ trợ của cô” – bác sĩ Davis nói.
“Chúng tôi có bốn người. Chúng tôi gặp nhau hàng tuần trong vài giờ ở nhà của một trong bốn người, và chúng tôi gửi thư điện tử cho nhau mỗi ngày. Tuyệt lắm, chúng tôi kể về mọi thứ.”
Hôm nay, bác sĩ Davis và người phụ nữ ở trong căn phòng tí hon hỏi cô rất nhiều câu hỏi thăm dò để đo chính xác mức độ suy thoái trong đầu cô. Nhưng không ai hiểu được những gì vẫn tồn tại trong đầu cô rõ bằng Mary, Cathy và Dan.
“Tôi muốn cám ơn cô đã làm người khởi xướng và sửa chữa lỗ hổng lớn trong hệ thống hỗ trợ ở đây. Nếu tôi gặp những bệnh nhân ở giai đoạn đầu hoặc khởi phát sớm, tôi có thể hướng dẫn họ liên lạc với cô không?”
“Vâng, anh hãy làm vậy. Anh cũng nên nói với họ về DASNI, Mạng lưới Hỗ trợ và Tư vấn bệnh mất trí sớm Quốc tế. Đó là diễn đàn trực tuyến dành cho những người mắc các bệnh mất trí. Tôi đã gặp hơn chục người trong đó từ khắp đất nước và cả Canada, Anh và Úc. Tôi chưa thực sự gặp họ, chỉ là trên mạng thôi, nhưng tôi cảm thấy tôi quen biết họ và họ quen tôi còn thân thiết hơn nhiều người tôi đã quen biết cả đời. Chúng tôi không lãng phí thời gian, vì chúng tôi cũng chẳng có đủ thời gian. Chúng tôi thường nói về những việc quan trọng.”
John đổi chỗ và ngồi rung đùi.
“Cám ơn Alice, tôi sẽ thêm trang đó vào tập thông tin tiêu chuẩn của chúng tôi. Còn anh thì sao, John? Anh có nói chuyện với nhân viên xã hội ở đây hay đến các buổi gặp mặt của nhóm hỗ trợ những người chăm sóc bệnh nhân chưa?”
“Chưa, tôi chưa. Tôi có uống café với vợ chồng những người trong nhóm hỗ trợ của cô ấy vài lần, còn lại thì chưa.”
“Anh cần phải cân nhắc việc tìm kiếm sự hỗ trợ cho mình. Anh không mắc bệnh, nhưng anh sống với Alice thì cũng như đang sống với căn bệnh vậy. Và cuộc sống thì khó khăn cho những người chăm sóc bệnh nhân. Tôi biết được tổn thất của người nhà bệnh nhân khi phải đến đây. Ở đây có Denise Daddario, cô ấy là nhân viên xã hội ở đây, và có nhóm hỗ trợ người chăm sóc bệnh nhân của Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, tôi cũng biết Hiệp hội Alzheimer Massachusetts có nhiều nhóm hỗ trợ cho người chăm sóc. Tài liệu dành cho anh có sẵn ở đây, nếu cần thì đừng ngại nhé.”
“Được rồi.”
“Nhắc đến Hiệp hội Alzheimer, Alice, tôi vừa nhận được chương trình Hội thảo Chăm sóc bệnh nhân mất trí thường niên của họ, và tôi thấy cô chuẩn bị phát biểu toàn văn khai mạc” – bác sĩ Davis nói.
Hội thảo Chăm sóc người bệnh mất trí là một cuộc họp quốc tế dành cho những chuyên gia trong lĩnh vực chăm sóc người bệnh mất trí và gia đình của họ. Các nhà thần kinh học, bác sĩ đa khoa, lão khoa, các nhà tâm lý học thần kinh, y tá và các nhân viên công tác xã hội đều tụ họp để trao đổi thông tin về các phương pháp chẩn đoán, điều trị và chăm sóc bệnh nhân. Cuộc hội thảo nghe cũng tương tự như nhóm hỗ trợ của Alice và DASNI, nhưng nó lớn hơn và dành cho những người không mắc bệnh mất trí. Cuộc họp năm nay được lên lịch sẽ diễn ra vào tháng tới ở Boston.
“Phải” – Alice nói. – “Tôi định hỏi, anh có đến không?”
“Có, tôi chắc chắn sẽ ngồi hàng ghế đầu. Cô biết đấy, tôi chưa bao giờ được mời thuyết trình hết một bài cả” – bác sĩ Davis nói. – “Cô thật sự là một người phụ nữ dũng cảm không ngờ đấy.”
Lời khen của anh, vẻ chân thật và không hề ra vẻ đã tăng thêm sự tự tin cần có cho cô sau khi cô bị vùi dập tả tơi bởi hàng loạt bài kiểm tra. John xoay chiếc nhẫn. Anh nhìn cô, nước mắt đọng trên mắt anh, anh gượng cười làm cô cảm thấy khó hiểu.