XÓM NGHÈO
Tuấn ở trong xóm B. C. đã lâu nên anh rất quen thuộc với các truyện vụn vặt trong xóm. Cả đến sự ồn ào cũng có lệ: cứ sáng sớm, rồi đến buổi trưa và buổi tối là trong xóm nổi lên một sự ồn ào, hỗn độn, nào tiếng máy hát rên rỉ ca hết bài vọng cổ này đến bài vọng cổ khác ; nào tiếng ra-dô ngân dài các điệu ca cải cách, nào tiếng trẻ con chơi hét rầm rĩ, đánh nhau chí choé ; và giọng ru con ngân dài dài trong tiếng khóc xa xả của trẻ sơ sinh. Người lớn cười nói, cãi nhau, chửi nhau, xen lẫn những tiếng bát đũa khua lạch cạch. Trên trời thì máy bay vù vù ngoài lộ thì xe chạy rầm rập, còi ô-tô liên tiếp thả những hơi dài nhức óc. Chao ôi! Còn bao nhiêu những tiếng động khác nữa, hơi nào mà kể cho hết được.
Phải mất một dạo Tuấn lấy làm khó chịu bực dọc lắm ; đến bây giờ cũng không gọi được là đã hết khó chịu. Nhưng làm thế nào?
Một lần đã lâu rồi, sau bữa cơm trưa anh tính nằm ngủ một chút, nhưng tiếng máy hát ở nhà thầy “Ký thuốc tây” bên trước cửa cứ toang toáng mở những bài ca vọng cổ than mây khóc gió mãi, đến là nhức đầu, sốt ruột! Mới đầu anh cố nhịn, nằm nhắm chặt mắt lại thầm an ủi
: “Chắc họ mở nốt bài này tắt máy chứ gì!” Nhưng bài này hết rồi lại bài khác nữa, cứ thế tiếp tục mãi ; mà tới bài nào anh cũng thầm nhủ lại: “Chắc hết bài này họ thôi. Hàng xóm láng giềng với nhau cố nhịn một tí cho khỏi mất lòng.” Nhưng mãi cũng không thấy thôi, anh bực tức quá. Lại thêm ánh nắng chói lọi nóng như lửa hun trên mái tôn làm cho trong nhà nóng cứ hầm hập như một lò than Nhiệt độ trong người anh tăng mãnh liệt, mồ hôi chảy thành dòng khắp người, anh cầm cái quạt, quạt phành phạch, mắt càng nhắm nghiền, cố quên cái tiếng kèn hát phải gió kia đi, cầu một giấc ngủ giải thoát, nhưng nào có được.
“Chao ôi! Nóng ơi là nóng, bực ơi là bực! » Anh vùng đứng lên, thò đầu ra ngoài cái cửa sổ bé tí xíu, hét vọng sang nhà thầy Ký trước cửa, cách nhà anh một con đường rộng hơn một thước:
– Các ông các bà có làm ơn tắt dùm cái máy hát đi cho tôi nhờ một chút không! Ai đời đang giữa trưa mà không giữ yên tĩnh. Cũng phải cho hàng xóm láng giềng nghỉ ngơi một tí chứ!
Hét xong anh lại nằm vật xuống, nhắm mắt sẵn để chờ kết quả lời nói của mình ; nhưng tiếng máy hát vẫn không ngừng, anh lại còn nghe thấy tiếng vợ chồng nhà ấy xì xào gì về anh, rồi lại cười khúc khích như chế nhạo anh nữa.
– Tức chết được! Tức chết được! Đến đánh nhau thì đánh chứ thế này nhịn sao được!
Anh hầm hầm đứng phắt lên, nhưng không phải để chạy sang nhà thầy Ký, mà là chạy vào trong sàn bỏ quần áo, múc mấy gáo nước dội ào ào suốt từ đầu đến chân. Được mấy gáo nước, người anh dịu lại. Anh nhìn ít nước còn lại trong lu chợt nghĩ đến sự di lấy nước vất vả của vợ anh. Hôm nào vợ anh cũng phải thức tới mười một mười hai giờ đêm mới tra- nh được hai gánh nước. Một hôm bảo vợ đi ngủ sớm để chở tới một, hai giờ đêm dậy gánh, ấy thế mà máy nước vào giờ đó vẫn cứ còn đông quá đi thôi. Thì ra ở cái xóm nghèo này người ta gánh nước suốt đêm, ngày lại làm việc suốt ngày hay sao?
Từ hôm đó trở đi, anh thành ra ghét vợ chồng thầy ký ở trước cửa quá. Mấy lần anh dem truyện cái máy hát ra phàn nàn với anh Hai Xích lô kế bên, và thím Xẩm bán mỳ đầu xóm, cả cô Hai vợ tây và bà Trà Huế gần đây nữa, nhưng người nào cũng chỉ cười mà không tỏ thái độ gì. Hình như họ quá quen thuộc với những tiếng ấy, hay họ lại thích mà không thấy khó chịu cũng nên. Từ đó anh thấy mình lạc lõng, gần như cô độc, anh cố tập nhịn. Thế rồi cách một dạo, đôi khi rỗi rãi buồn buồn, người ta cũng thấy anh ngâm nga vài câu vọng cổ ghi trong đĩa hát nhà thầy Ký mà anh đã nghe thuộc lúc nào không biết. Bây giờ, giá có ai phàn nàn với anh những truyện anh đã phàn nàn khi xưa, chắc anh lại chỉ cười...
Ở trong xóm này, cứ chiều đến, sau bữa cơm, người ta thường hay ra đứng ngoài cửa hóng mát, xỉa răng, và đem những truyện đã xảy ra trong xóm kề lại cho nhau nghe không sót một truyện gì. Thí dụ như truyện vợ chồng anh Sáu thợ mộc nửa đêm qua đánh nhau rầm rĩ cả lên, chỉ vì người vợ đã đem cầm cái áo dài lụa độc nhất của chị ta đi lấy sáu mươi đồng ăn nem nướng hết nhẫn.
Lại truyện cô Tư Chà-và bị chồng tát cho mấy cái nên thân, vì chị ta đánh bạc bị chồng về bất thình lình bắt gặp.
Rồi truyện thằng con chị Hai gánh nước thuê tự nhiên bụng cứ trương to lên, rồi hôm qua bỗng xổ ra một đống giun thật lớn. Giun bỏ cả ra đằng miệng, mũi và lỗ tai, thế rồi thằng bé lăn ra bất tỉnh. Người ta đã xe nó vào nhà thương làm phúc, không biết có cứu được không. Người ta đang kể bỗng ra hiệu cho nhau im đi vì chị Hai đang gánh nước từ ngoài ngõ vào. Người ta thấy chị giơ tay quệt ngang mắt. Lúc chị đi qua, người ta hỏi thăm thằng bé, chị đáp chưa biết ra sao, vì chưa tới giờ vào thăm. Người ta nhìn theo chị thở dài.
Cứ những chuyện lặt vặt như thế ở trong xóm này ngày nào cũng xây ra, không truyện nọ thì truyện kia.
Dạo đầu, ngày nào Tuấn cũng bàn với vợ, tính dọn nhà đi ở nơi khác, nhưng ngày nọ nối tiếp ngày kia, vợ chồng anh không thể tìm được nơi nào hơn, mà lại hợp với túi tiền của mình, và đã lâu rồi câu truyện đổi chỗ ở không thấy nhắc tới nữa.
Gần đây đồng bào Bắc di cư vào mỗi ngày một nhiều, đến nỗi cái xóm nghèo của anh phải xáo trộn cả lên, vì nhà cho thuê được giá. Thầy ký thuốc Tây đã thu gọn đồ đạc ở dồn vào một bên nhà, còn một bên kẻ được độ hai cái giường đã thấy cho một gia đình tản cư thuê. Rồi anh Hai xích lô cũng dọn đi để bán lại nhà cho chủ mới. Nhiều nhà khéo tính ; mua họ non, họ già về cất thêm một tầng gác gỗ lụp xụp để cho thuê.
Trong xóm lại thêm lên nhiều truyện vui buồn, phức tạp, hỗn loạn mới, và Tuấn, tối đến, cũng lại có một câu truyện mới để thở than với vợ.
Chao ôi! Cái xóm nghèo này sao cứ mỗi ngày một đông thêm mãi!