GIÀ BỐN
Trâm đang ngồi đọc báo thì Phương chị nàng vào. Chưa kịp ngồi Phương đã nói:
– Này, hôm qua già Bốn ra đấy. Trâm buông tờ báo, sửng sốt hỏi:
– Ai? Già Bốn ra à?
– Ừ, bây giờ bà cụ lôi thôi, lẩn thển lắm cơ.
Trâm như không nghe thấy câu chị vừa nói, nàng lẩm bẩm nhắc như hỏi lại: – Bây giờ ở nhà quê đã ra đây được rồi nhỉ.
– Cái gì, người ta đã đi lại nầm nập như đi chợ ấy rồi lại còn. Độ năm ngoái khi cô còn ở Saigon, sự đi lại từ quê ra ngoài này còn phải lẩn trốn khó khăn mà già Bốn cũng đã ra rồi. Mới trông thấy bà cụ, tôi nghẹn ngào tưởng như gập ở trong mộng. Tôi giữ bà cụ ở lại với tôi mấy hôm. Tôi làm bữa nem thết cụ, sáng ra thì lại vài lạng cốm non điểm tâm ; hồi ấy lại đang mùa chim ngói, tôi cũng mua hầm để cụ sơi, chẳng thiếu vị gì, ấy thế mà... Phương nhỏ giọng, ai lại bà cụ lẩn thẩn ngẩn ngơ lắm cơ ; suốt ngày cứ kề hết chuyện con trai lại đến chuyện con gái. Nào thằng Tâm chết, nào con Hiền chết... Nước mắt thì cứ giọt ngắn, giọt dài trông đến thảm. Mới đầu nhà tôi còn nghe, về sau anh ấy cũng sinh chán tai. Ấy thế mà lúc ra về, bà cụ lại còn vơ vét cả từ cái bao tải rách để đem về cho con dâu, làm tôi ngượng mặt với nhà tôi quá. Làm như thế người ta khinh cho ấy chứ lại.
Trâm lơ đãng nghe. Phương nói rứt lời mà Trâm vẫn yên lặng. Những kỷ niệm hồi xưa đang trở lại trong óc Trâm,
Già Bốn là chị ruột mẹ nàng. Già lấy chồng nghèo ở nhà quẻ và sinh được bốn người con là anh Tâm và anh Tính. Hai người này đã được mẹ Trâm nuôi cho ở Hà Nội để học nghề thợ nguội. Còn lại hai người con gái suýt soát bằng tuổi Trâm ở nhà quê với già, người lớn tên là Hiền, người bé là Hậu.
Hồi ấy, Trâm mới độ mười hai, mười ba, Được mẹ cho về nghỉ hè ở nhà quê,
Trâm ở với bác ruột nàng. Bác Trâm hồi ấy đương làm lý trưởng. Người bác cũng giầu, có nhà ngói, cây mít, sân gạch rộng thênh thang, thóc lúa chứa đầy mấy căn nhà ngang. Trâm được bác chiều chuộng lắm. Bữa cơm nào cũng cá thịt đầy mâm. Hoa quả ngoài vườn, Trâm tha hồ hái ăn mà không hề phải mắng. Trâm biết dưới già Bốn và trên bác vẫn có sự xích mích nguyên do chỉ vì nhà Trâm giàu có. Mỗi lần ba mẹ Trâm về đều ở nhà bác vì bác là họ nội, lại là nhà trưởng. Nhưng một đôi khi, già cũng có làm cơm mời thầy mẹ Trâm xuống ăn. Thấy thế bác Trâm cho là già cầu cạnh, nịnh hót để kiếm lợi. Già Bốn muốn tránh tiếng ấy nên ít vồn vã tuy già rất thân mến em và yêu các cháu.
Những ngày ở nhà quê, Trâm vẫn thích xuống chơi dưới già Bốn, Trâm yêu mến già và chị Hiền, chị Hậu lắm. Gia đình già sống trong một nhà tranh cũ kỹ, ở một ngõ vắng. Hai bèn đầu ngõ đều là vườn hoang của nhà ai. Họ trồng hàng rào găng tây và từ bi ; vì lâu ngày không ai tỉa nên hai bên hàng rào cây mọc rậm, ngọn nối liền vào nhau trông như một cái cổng tò vò ken bằng lá. Ở đầu ngõ đi vào mấy bước có cây ổi rất lớn. Cây ổi nầy quả thì ngon, nhưng cả làng đều đồn là lắm ma. Mỗi bận, dù là giữa ban ngày, đi qua đấy, Trâm cũng rợn tóc gáy, trống ngực nổi thình thịch, hai chân cứ ríu lại. Nhưng rồi Trâm cũng cố lấy hết can đảm để chạy vào nhà già. Gần đến nơi, Trâm vừa thở vira gọi chị Hiền chị Hậu rối rít cả lên. Bao giờ Trâm cũng được các chị chạy ra đón. Thấy Trâm sợ, Hiền, Hậu cười vang cả ngõ. Cũng có bận, Trâm đến ngõ gặp người vào, Trâm theo liền cùng với họ. Tới gần nhà Bốn, Trâm đẩy cửa vào bất thình lình để tỏ như minh can đảm lắm, dám đi qua cây ổi mà khô- ng sợ.
Bác Bốn, chồng của già, trừ những buổi rượu ra thì tính nết ông hiền lành. Suốt ngày ông tẩn mẩn, hoặc sửa lại cái bờ rào, hoặc chẻ lạt cặp lại mấy cái rổ rách. Nhiều hôm gặp bữa, Trâm ăn cơm luôn với già. Cơm thường chẳng có gì ngoài món rau luộc và dĩa tép vụn kho tương. Chị Hiền, chị Hậu thấy Trâm cùng ăn thì vui lắm. Nhưng già Bốn thì vẫn giữ nguyên nét mặt rầu rầu và khe khẽ bảo:
– Cháu ăn ở dưới này rồi trên bác lại nói.
Bác Bốn vừa nhắp một chút rượu vừa nói:
– Bà rõ thật. Trẻ nó gặp đâu ăn đấy cho vui. Ai nói thì mặc ai, mình cứ biết mình, sợ cái gì.
Rồi ông bảo Trâm:
– Ngồi xuống ăn đi cháu. Nhà bác chỉ có tép kho tương nhưng già làm khéo cũng ngon chán.
Trâm vừa ăn vừa thuật lại cho già nghe:
– Hôm nọ Trâm cũng ăn ở dưới này xong, lúc về trên bác đang ăn cơm và Trâm nghe tiếng bác nói: «Cứ ăn đi, không phải phần, chắc nó lại ăn ở dưới già nó rồi chứ gì. Dưới ấy chả lắm gạo mà, đầy buồng thóc ra đấy. »
Nói đến đây, Trâm ngừng ngay lại. Trâm vừa nhận thấy trên mặt già có nét đau khổ lắm. Già lại khẽ thở dài rồi đáp, vẫn một giọng rầu rầu:
– Già thì nghèo, cả làng ai chẳng biết. Bao giờ mà già có lấy đi một buồng thóc, buồng trấu thì có.
Già nói thế vì nhà già vẫn làm gạo bán nên có nhiều trấu.
Bác Bốn nói như hơi gắt với vợ:
– Ô hay, thì đã sao? Người ta mong cho mình như thế thì đã sao? Ừ, thì đã sao?
Rứt lời, ông ngửa mặt cười khà khà rồi cầm ly rượu tợp một ngụm. Uống xong, ông đặt mạnh ly xuống mâm. Trâm thấy hối hận vì minh đã mang câu chuyện buồn vào bữa ăn. Nhưng hai chị Hiền, Hậu thì như không biết chuyện gì, vẫn cứ vừa ăn vừa cười đùa vui vě.
Xong bữa Hiền, Hậu rủ Trâm vào buồng trấu. Mấy chị em lấy chiếu trải lên trên mặt trấu rồi chơi nhào lộn rồi hò hét ầm ỹ.
Gần đến tối, già Bốn giục Trâm về. Trâm cũng không về. Trên nhà, bác lại cho chị Năm xuống đón. Trâm lấy cớ sợ cây ổi đầu ngõ, không chịu đi, đòi ngủ lại dưới già. Chị Năm chiều Trâm đành ra về một mình.
Bác Bốn say rượu nên đi ngủ sớm. Trời sáng trăng vằng vặc ; già Bốn lấy chiếu trải trên sân ngồi chơi. Mấy chị em quây chung quanh bắt già kể chuyện cổ tích. Trâm nũng nịu nằm vào lòng già. Một tay già sẽ sẽ xoa trên lưng Trâm ; một tay quàng lên lưng chị Hậu ; chị Hiền tựa đầu bên lưng già. Nhân có trăng sáng, già bèn kể truyện thằng Cuội vì nó dối với cha và chú nên phải bay lên mặt trăng cùng với cây đa, rồi ngồi giữ trâu dưới gốc đa trên đó cho tới bây giờ. Già Bốn chỉ tay lên mặt trăng và bảo:
– Kia, cái chỗ đen đen kia là cây đa, và dưới cây đa là thằng Cuội, nó ngồi đấy... đấy...
Trâm xoay người nằm thẳng, đầu gối lên đùi già, mắt theo tay già chỉ nhìn lên mặt trăng tìm thằng Cuội. Cả Hiền, Hậu cũng nhìn lên. Một lát quả nhiên Tràm thấy rõ ràng hình cây đa nổi bật lên giữa hình tròn của mặt trăng, và dưới gốc cây đa quả có một hình người ngồi đội nón.
Càng nhìn, mỗi lúc Trâm càng thấy mình gần mặt trăng hơn. Gió lúc ấy thoát nhẹ, hơi mát thấm dần vào người Trâm như lành lạnh mà lại không phải lạnh. Từ mặt trăng tỏa ra một thứ ánh sáng huyền ảo dị thường. Có lúc Trâm thấy giống như một thứ lụa rất mỏng đang vương khắp không gian. Có lúc cả bầu trời trong suốt như thủy tinh, Trâm có cảm tưởng như sờ mó vào được. Có lúc lại như khói nhẹ bay tỏa khắp nơi. Trâm thấy người mình nhẹ nhàng, lúc bỗng, lúc chim như đang chơi vơi ở giữa trời. Trâm ôm chặt lấy già và cảm thấy cả hai dì cháu đang từ từ bay lên gần mặt trăng như hồi nào thằng Cuội ôm chặt lấy cây đa mà bay lên cung trăng. Và rồi Trâm ngủ đi lúc nào không biết.
Lại một buổi Trâm đến nhà già đúng vào bữa ăn. Cả nhà có một giá ngô bung để giữa giường. Mỗi người xúc một bát ngồi ăn riêng mỗi nơi. Già Bốn cầm bát ngô ngồi trên bực cửa ra vào. Già vừa ăn ngô vừa ngó ra sân như có điều gì suy nghĩ, Thấy Trâm vào, già chỉ khẽ hỏi:
– Xuống đấy à? Ăn cơm chưa?
Trâm vốn thích ngô nên trông thấy vội reo lên:
– A ngô. Cháu ăn cơm rồi nhưng cháu cũng ăn thêm ngô.
Hậu đặt bát xuống, nhanh nhẹn chạy đi lấy thêm bát đũa cho Trâm, Hiền đỡ lấy bát xúc ngô vào. Ba chị em lại vừa ăn vừa cười khúc khích. Bác Bốn thì ngồi xếp chân bằng tròn trên tấm ghế ngựa kê ở gian bên, trước mặt có đĩa lạc rang và chai rượu. Còn già Bốn vẫn ngồi yên chỗ cũ, vừa ăn vừa thỉnh thoảng giậm chân, mồm kêu suỵt suỵt để đuổi đàn gà con đang bới đống rác giữa sân. Cử chỉ ấy của già như để giấu nỗi vui vì thấy Trâm ăn.
Ăn xong, Hiền, Hậu rủ Trâm ra vườn sau chẩy khế chua xuống, xắt mỏng dầm tương ớt, rồi mấy chị em lại cùng ăn với nhau.
*
Tôi đã bảo bà cụ ra chơi gặp gì ăn nấy, đừng có tham lam nhặt nhạnh thế. Còn cháu rể, nó thấy nó khinh cho chứ, phải không?
Tiếng Phương hỏi to kéo Trâm trở về hiện tại. Nàng đã hiểu chị nàng nói gì về người già thân mến. Trâm buồn rầu bảo chị:
– Khinh hay không là ở mình, chị ạ. Người nhà mình dù nghèo, dù rách, nếu mình kính trọng trước thì tự nhiên chồng mình cũng phải kính trọng theo. Chứ người già nua nào mà chẳng có tính lẩn thẩn thế.
Trâm không muốn nhắc lại câu Phương bảo già Bốn tham lam. Trâm vẫn không thể tin được rằng già Bốn sinh tính tham lam. Vì xưa kia, già Bốn tuy nghèo nhưng rất an phận và ngay thẳng. Trâm buồn rầu nhắc lại một vài kỷ niệm cũ của già Bốn đối với chị em nàng cho Phương nghe. Phương có vẻ cảm động nói:
– Thì tôi vẫn mời mọc bà cụ tử tế chứ có làm gì đâu. Cô đi xa lâu ngày mới về nên không biết đấy chứ! Mà bây giờ cô có muốn đón bà cụ về chơi mấy hôm cũng được. Bà cụ chưa về quê đâu, vẫn còn ở dưới chị Tâm ấy.
Chiều hôm ấy, Trâm tự đi xuống nhà chị Tâm con dâu già Bốn, để đón già về nhà mình chơi.
Trong mười năm trời xa cách, già Bốn nay trông già hơn xưa nhiều lắm. Tóc đã bạc gần hết đầu, nhiều nếp nhăn in sâu trên mặt duy còn hai đầu mày vẫn còn nhíu lại như hồi xưa. Từ hồi còn bé, Trâm cũng đã thấy hai đầu lông mày của già lúc nào cũng nhíu lại. Người ta bảo già vất vả là vì thế. Trâm xa cách già từ hồi còn nhỏ tuổi, trong lòng vẫn mang một kỷ niệm thân yêu ; lúc sắp gặp già, Trâm mừng rạo rực tưởng như nàng vẫn còn có thể làm nũng già như hồi xưa, hồi mà già còn hay vuốt tóc Trâm và còn gọi nàng bằng cháu, hoặc một đòi khi quen giọng quê mùa, già thân mến gọi nàng bằng mày.
– Này, mày ăn đi, quả quýt này thế mà ngọt.
Bây giờ thì không thế được nữa, tuy già Bốn vẫn sống, và đang ở trước mặt nàng, nhưng nàng thấy già xa lạ với mình quá.
Khi gặp nàng, trái với cử chỉ vồ vập như Trâm tưởng, già Bốn chỉ nhìn nàng bỡ ngỡ. Nói với nàng, già cũng giữ lễ phép. Một điều hai điều gọi nàng bằng cô. Trâm cố gợi tình cảm cũ của già Bốn. Nàng nhắc lại những chuyện trước, nhưng nét mặt già vẫn không thay đổi. Họa hoằn lắm Trâm mới chợt thấy mắt già sáng lên một giây rồi lại trở lại bình thường.
Thế là hết. Già Bốn bây giờ chỉ còn là một bà lão lẩn thẩn lần thần, trông thấy cái ống bơ sữa bỏ cũ cũng nhặt. Để cho mẹ Tâm nó đong gạo. Thấy cái nồi cũ mà Trâm bỏ không dùng vứt ở xó bếp, già cũng nhặt lên ngắm nghía:
– Cái này bỏ à. Để mẹ Tâm nó nấu cơm thì vừa đây. Hồi tản cư, những đồ như thế này bán cũng được khối tiền, chẳng ai bỏ.
Hễ cứ ngồi cạnh già Bốn lúc nào là Trâm lại phải nghe già kể chuyện:
– Thằng cả Tâm mà nó đừng chạy đi xa quá thì cũng không đến nỗi chết. Khổ, nó bị ngã nước mà chết đấy chứ có gì đâu. Hồi nó đi, cái da nó vẫn cứ đỏ hồng. Còn thằng Tính nữa, bây giờ cũng chẳng biết sống chết ra sao. Mà bom đạn thế này thì sống làm sao được cơ chứ. Giá bình yên ra thì bây giờ nó cũng đã có vợ có con rồi đấy. Lại cái Hiền nữa. Mới đẻ mà chạy loạn lên mãi tít tận mạn ngược. Giá nó đừng chạy thì làm gì đến nỗi chết. Cái thân già này chẳng chạy được thì lại chẳng chết cho. Còn con Hậu thì nó đi theo chồng nó. Nó bảo đợi mấy tháng bình yên thì nó về mà bày giờ mấy năm rồi. Con ơi?
Rứt lời già Bốn đưa vạt yếm lên lau mắt rồi lại tiếp:
– Bây giờ còn có con mẹ cả Tâm. Thằng bé thì cũng cứ sài đẹn, leo kheo mãi, mà mẹ nó kiếm chẳng đủ ăn.
Mấy lần đầu nghe già kể, Trâm cảm động thương già đến phát khóc. Nhưng luôn mấy ngày hôm nay, nàng cứ phải nghe mãi một giọng và một chuyện ấy mãi, Trâm thành ra khó chịu. Lắm lúc nàng phải giả vờ đứng lên làm việc gì đấy để khỏi phải nghe. Nàng đã thấy muốn tránh cái bà già lẩn thẩn. Nhưng tránh được già rồi thì Trâm lại thấy hối hận ngay. Nàng thấy như mình ích kỷ và thấy khó chịu ngay với chính mình. Trâm tự nhủ là phải đối đãi với già Bốn cho tử tế hơn. Nàng cho người đi mua vải lụa về để may quần áo cho già ; nàng làm các thức ngon vật lạ cho già ăn. Tuy vậy nhưng Trâm vẫn không muốn ngồi gần bên già. Nàng khó chịu vì tính lẩm cẩm của già. Đã có lúc nàng mong cho già Bốn sớm trở về quê mà ở, ý nghĩ này làm Trâm đau khổ vô cùng. Nàng thấy là nàng đã phạm vào một lỗi để nàng phải hối hận. Trâm biết rằng miếng ngon, vật lạ, quần áo, nàng mua sắm cho già thì dễ, tình thương nàng vẫn có thế nhưng có được cái tình cảm chân thành, yêu mến già như hồi nhỏ thì thực khó quá chừng.