← Quay lại trang sách

- II -

Mùa lúa chín bay ra thơm phức. Giữa quãng đồng rộng mênh mông, Sinh cảm thấy mình trơ vơ một cách lạ. Sáng hôm ấy Sinh trở về quê thăm mẹ. Trước kia lúc còn níu áo chị qua những cánh đồng hoang, Sinh thấy trí vững vàng và lòng bình tĩnh lắm. Sinh tin ở sự che chở của chị và lòng hăng hái trẻ con của mình. Nhưng hôm nay Sinh tự ví mình như con chim chiều lạc tổ. Một hơi gió thoảng sau lưng, vài tiếng sột soạt trong bụi lúa cũng đủ làm Sinh quay đầu lại, tái xanh cả mặt.

Mặt trời lên đã quá hai sào. Qua khỏi đồng tranh Sinh đã vào đầu làng Thanh-Ý. Thấy chung quanh miếu Thần-Hoàng cỏ cây um tùm quá, nên Sinh cắm cổ đi thật nhanh. Sinh bỗng giật nẩy mình lúc nghe có tiếng người gọi Sinh trước miễu. Sinh quay lại thì thấy ông lý Tâm đang ngồi chữa cái dù trên phiến đá lớn. Sinh mừng rỡ chạy lại;

– Bác Lý đi chơi à?

Ông lý Tâm đứng dậy cười nói:

– Đi có chút việc chứ không phải đi chơi. Cậu Sinh về làng phải không?

Sinh vui vẻ:

– Vâng. Thế bác cũng về một lần với cháu à?

Ông lý Tâm rung cây dù một hồi rồi đưa tay chống lên:

– Không, tôi còn phải lên huyện đã. Nhanh lắm cũng đến chiều mai mới về được.

Sinh lần đến bên gốc cây đa, để cặp xuống đất có vẻ buồn bực. Ông lý Tâm ngẩng đầu lên nhìn cái dù rồi quay mấy vòng trên vai trước khi cụp xuống:

– Cô giáo Cam đã về nhà trước rồi phải không cậu Sinh?

Không để Sinh trả lời, ông lý Tâm vểnh râu cười, nói tiếp:

– Lần này xem thử cô giáo Cam có tránh được tôi không nào? Tháng chạp năm ngoái cô có đến nhà và có cho tôi hai gói trà. Cô nói đồng triện tôi đóng có lợi, cô được việc làm nên cô trả ơn. Tôi có hứa bận sau cô về làng tôi sẽ đem biếu cô hai con chim sáo. Cô mỉm cười nói: “Lần này lên tỉnh cháu sẽ ở luôn và chắc không về được nữa…”

Sinh rùng mình ngắt lời hỏi lớn giọng hơi run run:

– Vì sao chị tôi lại nói câu ấy?

Ông lý Tâm nhìn Sinh trên hai vòng kính tươi cười:

– Cô ta sợ tôi đem lại biếu chim chứ gì? Tôi đã nói chim tôi sẽ đi đặt bẫy chứ không phải bỏ tiền ra mua thế mà cô cũng không chịu. Lần này xem thử cô giáo có về làng không!

Dứt câu ông lý Tâm thích chí cười ha hả. Sinh nhìn ra ngoài đường muốn làm ra vẻ dửng dưng như không. Nhưng tiếng cười từng nhịp của ông lý Tâm dội mạnh bên tai và làm Sinh bối rối. Sinh xách cặp cầm trên tay rồi quay lại cúi đầu chào:

– Thôi xin bác cho cháu về trước.

Ông lý Tâm gật đầu lia lịa:

– Cháu về nhà nhờ nói với ông phó Ty chiều mai hay sớm ngày kia bác mới về được nhé.

Sinh vâng rồi bước ra đường đi thẳng. Dọc đường những lời của ông lý Tâm bắt Sinh suy nghĩ mãi. Sinh tự nhủ: Chị Cam nói với ông lý Tâm không về làng nữa có phải là một cái điềm không? Nếu quả thật lời người ta đều linh ứng thì sao lắm người thề dối lại không chết. Sinh muốn đem ít bằng cớ ở khoa học để giải nghĩa, nhưng tìm không ra. Sinh bực mình đưa tay xoa trán không nghĩ nữa.

Sinh đến đầu làng Từ-Lâm thì trời vừa đứng trưa. Sinh vào quán ở đầu cầu sông Vực để uống nước và để đợi mấy chị bán gạo cùng về một đường. Vì từ làng Từ-Lâm đến Mỹ-Lý, Sinh còn phải qua hai chuyến đò ngang và một cánh đồng hoang vắng. Trời quá đứng bóng một chú thì mấy chị ở làng Mỹ-Lý gánh gạo ra về.

Sinh đứng dậy chào chị Hoa người ở cùng xóm:

– Chị Hoa ơi! Chợ đã tan rồi phải không chị?

Hoa đứng dừng lại để gánh gạo xuống đất:

– Vâng. Cậu Sinh về thăm nhà đấy à? Cô giáo Cam đâu?

Sinh cúi đầu ấp úng:

– Chị em bận việc quá không về được.

Hoa cất gánh lên vai đi theo mấy người bạn gái đang đợi Hoa dưới rặng liễu. Vừa đi Hoa vừa quay đầu lại nhìn Sinh hỏi:

– Cậu về đi đò hay đi tầu?

– Em đi đò đến làng Từ-Sơn thì lên bộ.

Như sực nhớ một việc gì, Hoa hỏi tiếp:

– À hôm nay ngày giỗ của thầy cậu thì phải. Tôi cũng đoán liều thế không biết có đúng không? Sớm hôm nay mợ cậu có đến nhờ anh Tuy tôi sang bên đồng Hoà-An để đắp lại cái mồ của thầy cậu.

Sinh ngoảnh mặt nhìn xuống cầu đáp:

– Chị đoán đúng đấy.

Hoa trở gánh gạo sang vai cười nói:

– Chẳng trách sao thiên hạ họ cầu đẻ con trai cũng phải. Cha thì cha chung, thế mà đến ngày giỗ cha, cô con gái trưởng lại vắng mặt.

Sinh nghe Hoa nói, tự nhiên thấy lòng chán ngán một cách lạ. Sinh cũng không buồn cãi. Nhưng không nói được trí Sinh lại bàng hoàng, lòng Sinh lại rào rạt, Sinh cố đi thật chậm để lau hai dòng lệ từ từ rơi trên má.

Thoáng không thấy bóng Sinh, Hoa liền quay lại nhìn về phía sau nói lớn:

– Các chị ơi! Đi chậm một chút. Cậu Sinh đi không kịp đâu.

Như cái máy, mấy chị bán gạo đi trước đứng dừng lại. Sinh lau nhanh nước mắt rồi cắm đầu đi tới.

*

Đến cổng nhà, Sinh tự nhiên thấy lòng nôn nao như người khách lạ. Sinh muốn gặp mẹ ngay cho lòng đỡ bận rộn. Cánh cửa lớn trước nhà chỉ chống hé một nửa. Hai cánh cửa mắt cáo hai bên thì bịt kín lại. Nghĩ đến chiều ấy là ngày kỵ của thầy Sinh, Sinh buồn quá muốn nức lên khóc. Thấy Sinh bước vào cổng, một con chó nằm trước thềm đưa mõm lên cao sủa lớn. Quen như lúc trước Sinh vẫy tay gọi lại. Nhưng con chó cứ đi thụt lùi rồi chúm bốn chân sủa vang hơn trước. Sinh tần ngần đứng lại. Đặt cặp xuống đất che hai chân, Sinh nhìn vào nhà lên tiếng gọi:

– Mợ ơi!

Hai tiếng ấy dội vang bên vườn chuối rồi im bặt. Sinh nhặt một thanh tre ngày trước tay ném con chó rồi gọi lớn:

– Mợ có ở nhà không mợ?

Con chó chạy đến đứng bên bụi môn sủa to hơn nữa. Một bà già từ trong nhà bước ra vừa đi vừa đưa tay dụi mắt. Sinh nhận được người quen nên chạy lại đứng một bên vui vẻ hỏi:

– Mợ ơi! Cháu về đây. Mẹ cháu có ở nhà không mợ?

Bà già đăm đăm nhìn Sinh một hồi lâu rồi nhếch mép cười:

– Cháu Sinh đấy à? Thế mà mợ nhận mãi không ra. Cháu vào nhà đã.

Sinh cúi xuống xách cái cặp rồi lẽo đẽo theo chân bà giáo Hiên. Lúc vào nhà hai mắt Sinh cứ nhìn quanh để tìm mẹ. Mùi dầu chổi bay ra khắp nhà khiến cho Sinh nhớ những ngày ở bên chị. Hai mắt Sinh luôn luôn đánh chớp. Sinh hồi hộp sợ những chuyện không đây. Không nghe mợ nói đến mẹ mình, Sinh đã run run hỏi sẽ:

– Mẹ cháu ở đâu mợ?

Bà giáo Hiên đưa cái chổi con quét phản rồi quay lại nói:

– Cháu để cặp trên đây. Mợ yếu luôn mấy tuần nên trong nhà không ai sắp dọn hết.

Sinh bực mình hỏi lớn:

– Mẹ cháu đi đâu hở mợ?

Lần này như nghe rõ, bà giáo Hiên ôn tồn đáp:

– Đã lớn rồi mà còn đòi mẹ như trẻ em. Mẹ cháu mới đi ra chợ đấy.

Ngừng một lát, bà giáo đỡ cằm Sinh mỉm cười:

– Chiều nay là ngày giỗ thầy cháu, cháu nhớ không? À cháu Cam đi đâu mợ không thấy?

Sinh rưng rưng nước mắt cúi đầu nhìn xuống đất:

– Chị cháu bận dậy học không về được.

Gần bốn giờ chiều bà Lai mời về đến nhà. Trông thấy Sinh thơ thẩn đợi mình trước cổng, bà liền gọi lớn:

– Sinh ơi!

Sinh ngẩng đầu trông thấy mẹ thì cắm đầu chạy một mạch. Bà Lai để rổ đồ ăn xuống đất đưa thẳng hai tay để đón Sinh. Sinh chạy lại đứng một bên mẹ vừa thở vừa nói:

– Mợ đi lâu về quá. Con đứng đợi mợ mỏi cả cổ.

Bà Lai đưa tay cài khuy bên nách áo Sinh:

– Con về có mỏi chân không? Mợ đi chợ Sinh con ạ. Vì chỉ bên ấy họ mới bán đồ mã để đốt cho thầy con.

Nói xong bà ta cúi xuống cắp rổ đồ ăn rồi nắm tay Sinh dắt vào nhà. Mới đi đến sân, bà Lai đã cất tiếng hỏi:

– Cô giáo Cam của mợ đâu?

Sinh rút tay ra đứng dừng lại. Mặt Sinh hơi tái xanh, tim Sinh đập mạnh. Sinh bối rối như người ở trước cảnh nguy hiểm. Bà Lai bước vào nhà rồi toan đi xuống bếp. Sinh chạy lại giữ áo mẹ, cúi đầu ấp úng:

– Mợ ạ, chị con xin phép không được.

Bà Lai quay lại thở dài đưa tay xoa đầu Sinh:

– Ừ, mợ cũng biết…

Sinh trố mắt nhìn mẹ lo lắng:

– Có ai nói cho mợ biết à?

Bà Lai nhìn ra cổng nói sẽ:

– Không.

– Thế sao mợ biết được.

Bà Lai đặt tay sau lưng Sinh giục xuống bếp rồi nói tiếp:

– Vì đêm qua mợ nằm chiêm bao thấy chị con về nói năm nay xin phép không được. Nói xong thì chị con ôm mợ khóc nức nở. Mợ không biết gì cũng khóc theo. Cậu giáo con nghe mợ kêu ú ớ thì gọi thức dậy. Nói là khóc trong chiêm bao, nhưng lúc tỉnh dậy mợ cũng thấy hai mắt nhòe cả lệ.

Bà Lai đặt rổ đồ ăn trên bức phản, xịu mặt xuống:

– Đêm qua mợ lại thấy chị con mặc toàn đồ trắng. Nhưng thường nó có bao giờ ưa mặc áo trắng đâu!

Sinh hơi hoảng sợ. Nước mắt dồn quanh trong hai khóe mắt. Sinh quay mặt nhìn ra sân như sợ cặp mắt mẹ nhìn và đọc được những lời dối của mình. Một lát sau, Sinh quay lại nắm tay mẹ, rồi với một giọng chắc chắn Sinh nói lớn:

– Mợ ạ. Chị giáo có bảo con đưa về hầu mẹ mười đồng.

Bà Lai nhìn Sinh ra chiều cảm động lắm. Như sực nhớ một việc gì, Sinh nói tiếp:

– À chị con còn gửi cái này nữa mà con cũng quên.

Bà Lai tươi cười:

– Cái gì?

Sinh chạy lên nhà trên một chút rồi trở xuống đem cho mẹ một cái áo len mầu da chai:

– Chị Xuân đan áo để mẹ mặc áo rét đấy.

Bà Lai ngạc nhiên:

– Chị Xuân nào con nhỉ?

Sinh biết mình nói hớ nên vội chữa:

– Con nói nhầm đấy. Chị Cam chứ không phải chị Xuân.

Bà Lai đưa hai tay trăng áo ra rồi vừa cười vừa nói:

– À, mợ nhớ ra chị Xuân rồi. Chị ấy vẫn thường chứ. Để chốc nữa mợ đưa cái áo len này cho cậu giáo mặc. Cái áo len trắng chị con cho mợ năm ngoái vẫn còn mới nguyên.

Bà Lai vắt cái áo trên dây thép ngắm nghía một lúc rồi quay lại bảo Sinh:

– Thôi con lên nhà trên quét dọn bàn thờ lại. Mẹ còn phải nấu nướng để cúng cơm chiều cho sớm.

Sinh vâng rồi bước vội vàng lên nhà trên. Nhưng đến ngưỡng cửa bà Lai đã gọi giật lại:

– Con xem cậu giáo con đã về chưa?

Sinh nhìn lên nhà rồi quay lại nói lớn:

– Thưa mợ chưa.

Nói xong Sinh cúi đầu bước qua cửa, lòng nhẹ nhàng như vừa thoát khỏi một cơn tai nạn lớn.

*

Ông giáo Hiên nguyên dạy chữ Hán ở trường làng Mỹ-Lý. Năm ấy ông đã ngoài năm mươi tuổi. Người gầy và trán cao. Ông có một trai và một gái. Người con trai hiện đương làm phó Lý trong làng. Người con gái thì lấy chồng tận bên làng Hương-Mỹ. Tánh tình ông giáo Hiên và anh phó Ty – tên người con trai – giống nhau lắm. Nghĩa là cũng nệ cổ, cũng ương gàn như trăm nghìn nhà Nho khác. Từ ngày bà Lai về ở trong nhà, ông giáo thường tỏ ra vẻ không bằng lòng. Sự thật thấy em gái góa chồng ông ta cũng thương lắm. Nhưng ông ta lại sợ thiên hạ nói động đến gia phong. Bà Lai mỗi lần nghe ông giáo nhắc đến chuyện nhà cửa thì ngồi ôm mặt khóc nức nở.

Bà giáo lại chen vào nói ít lời hòa giải:

– Thôi để cô ở trong nhà cho vui. Vả hai cháu đã lên ở trên tỉnh. Cô có ở nhà riêng cũng không khỏi buồn được.

Ông giáo nghe vợ nói thì ngồi vuốt râu yên lặng. Sự thật thì ông giáo cũng chỉ mong nói ra để vợ khỏi chê mình là người “không biết chuyện”. Chừng nghe bà giáo khuyên can thì ông coi như làm xong bổn phận rồi. Ông chỉ nói thêm ít câu lạc đề rồi lên sập nằm ngủ.

Chiều hôm ấy ông giáo xách dù về thật sớm. Ông về đến nhà thì nhằm lúc bà Lai và Sinh lên đèn cúng cơm cho em rể. Ông giáo lật đật xuống bếp rửa mặt rồi lên ngồi trên sập bịt khăn đen lại. Đoạn ông đến trước bàn thờ ông Lai đứng lễ. Sau khi đi thụt lùi ra khỏi chiếu, ông giáo đưa tay vuốt râu nói lớn:

– Mới đây mà đã mười năm rồi. Hồi dượng còn làm chánh tổng thì chính dượng đi vận động cho tôi vào dậy ở trường Mỹ-Lý. Cũng nhờ dượng quên thân với ông huyện nên tôi mới được việc.

Lời ông giáo nói như rơi vào cõi trống. Những người đứng chung quanh không ai lên tiếng hưởng ứng. Nhưng ông cũng không đòi gì hơn nữa. Năm nào đến ngày giỗ ông Lai, ông giáo cũng nhắc lại câu ấy. Ông có ý nói lại để cho bà giáo nhớ đến một cái ơn xưa. Và nhờ cái ơn ấy bà giáo sẽ không than phiền đã để bà Lai cúng chồng mình trong nhà của mình. Vì dân vùng quê thường tin để người khác cúng trong nhà mình là một cái điềm bất lợi.

Cúng xong thì trời sẩm tối. Ngoài trời mưa lay bay và có gió lạnh thổi rì rào qua hàng tre trước cổng.

Ông giáo đến hút thuốc giữa sập. Bà giáo giúp ba Lai đem mâm cơm cúng đặt trên bức phản gần đấy. Sắp đặt đâu đó xong xuôi bà Lai liền đến dựa bên cột chắp tay nói:

– Xin mời anh sang xơi chén rượu.

Ông giáo không đợi mời tiếng thứ nhì đứng dậy xỏ chân vào giầy đi sang bên phản. Bà giáo và mẹ con Sinh lẳng lặng đến ngồi một bên. Nhấp chén rượu đầu tiên xong, ông giáo đưa đôi đũa quơ tìm trên mặt mâm:

– Có đĩa chả cua nào đấy không?

Bà Lai để bát cơm xuống mâm, chống đũa đáp:

– Tôi cũng định làm một đĩa để anh xơi rượu. Nhưng năm nay cô giáo Cam không về nên tôi làm một mình không kịp.

Ông giáo đưa mắt nhìn quanh một vòng rồi đặt chén rượu xuống mâm nói:

– Thật tôi lú lẫn quá. Cháu nó không về mà tôi cũng không biết.

Nói xong ông giáo cầm chén rượu uống thêm một hớp rồi quay lại nhìn Sinh:

– Chị Cam cháu không xin phép được à?

Sinh nhìn xuống mâm đáp sẽ:

– Vâng.

Ông giáo cúi đầu suy nghĩ một chút rồi ngẩng đầu hỏi bà Lai:

– Cháu Cam năm nay bao nhiêu tuổi rồi cô?

– Dạ nó tuổi Thìn mười tám tuổi.

Ông giáo đưa tay lên tính rồi lẩm bẩm:

– Thế năm nay là năm tuổi của cháu. Sao Thái Bạch, hạn nặng. Cô phải tin cho cháu biết mới được. Nhất là trong tháng này, tôi chỉ sợ cháu nó yếu thôi. Vì con rồng mà gặp tháng lửa thì nguy lắm.

Bà Lai nói lảng sang chuyện khác cốt để cải chính một cách gián tiếp lời ông giáo:

– À, cháu Cam có gửi về anh một cái áo len để mặc rét.

Nói xong bà Lai liền quay lại hỏi Sinh:

– Chị con đan áo len trong tháng này phải không?

Sinh đưa đũa dầm cơm trong bát ấp úng:

– Vâng.

Ông giáo vuốt râu yên lặng nhìn ra sân để chữa ngượng. Sinh đãng trí lấy cái thìa chan cả bát cơm đầy nước mắm.

Ông giáo sắp nói nữa thì ngay lúc ấy trước sân có tiếng guốc ai đi lẹp kẹp. Con chó nằm dưới phản sủa lên mấy tiếng rồi im ngay. Bà Lai đứng dậy đến bên cửa vừa kéo then vừa lẩm bẩm:

– Chắc anh phó Ty chứ còn ai nữa.

Cánh cửa vừa mở toang ra, anh phó Ty nhanh chân bước vào. Tối hôm ấy anh ta mặc áo đen dài, chít khăn đen và đeo kính trắng. Tầm thước anh ta gần như ông giáo. Người hơi cao, một cái gân xanh sổ ngay một đường giữa trán. Tay chân anh lẻo khoẻo trông vụng về lắm. Hôm ấy anh ta ra làng để chia ruộng cho dân. Anh phó Ty mới bước vào, hơi rượu đã bay ra nồng nặc. Anh ta đưa tay áo lau miệng nhìn ông giáo lấm lét. Ông giáo chống đũa giữa chén cơm nhìn anh phó Ty nói lớn:

– Anh phó lại say rượu rồi!

Anh phó Ty cởi áo đen dài ra, rời rạc nói từng chữ một:

– Con có say đâu. Thầy lý Tâm thấy trời lạnh nên cho một chén rượu để uống cho ấm bụng.

Nhớ sực đến lời ông lý Tâm dặn Sinh ban sáng ở làng Thanh-Ý, Sinh cúi đầu mỉm cười. Ông giáo quắc mắt nhìn anh phó Ty:

– Không say mà anh…

Tìm chưa ra chứng cớ chắc chắn, ông giáo ấp úng nói tiếp:

–..mà anh lại đứng cởi áo đen trước bàn thờ dượng à?

Bà Lai muốn êm chuyện nên chen vào nói lớn:

– Thôi mời anh phó Ty ngồi lại ăn cơm cho nóng. Cả nhà cũng vừa mới ngồi đấy.

Anh phó Ty nhìn qua mâm cơm đáp:

– Thôi để cháu ăn sau cũng được.

Nhưng vừa nói anh phó Ty vừa bước chân lên phản ngồi. Đưa chén cho bà Lai xới cơm, anh phó Ty đưa mắt nhìn quanh rồi quay lại hỏi Sinh:

– Năm nay cô giáo Cam không về à?

Rồi không đợi Sinh trả lời, anh phó Ty nói tiếp:

– Tuần trước thầy Hương lên tỉnh về nói lại lắm chuyện vui quá. Thầy ta nói học trò con Tây mà cũng biết trọng quân, sư phụ. Họ đi đưa đám một cô giáo người An-nam nào đó trông chật cả đường…

Sinh đang phập phồng lo sợ thì ông giáo nói tiếp:

– Nước nào lại không có tam cương ngũ thường. Nước họ cũng có luân lý như nước mình, lại có phần minh bạch hơn là khác. Nhưng chỉ phiền một điều là…là…

Ngập ngừng một lát để tìm chữ nhưng không ra. Ông giáo cũng không buồn nhắc lại nữa.

Sinh cúi đầu cố cắn môi suy nghĩ, hai má đỏ như gấc.

Trời bên ngoài tối đen như mực, xa xa bên xóm Nứa có vài tiếng chó sủa vu vơ.