← Quay lại trang sách

- III -

Từ ngày vào ở nhà Xuân, Sinh thấy mình trơ vơ như kẻ bộ hành lạc bước. Sinh buồn nhưng không muốn để lộ ra cho Xuân biết. Bao nhiêu cử chỉ âu yếm của Cam ngày xưa, Sinh đều tìm được bên Xuân gần hết. Tuy vậy lắm lần Sinh cũng không khỏi ngỡ ngàng được. Vì Xuân lớn hơn Sinh không đầy hai tuổi, người mảnh khảnh lại không cao hơn Sinh mấy.

Xuân quê ở Nam-Định, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Anh em không có ai nên về ở nhờ trong nhà một người chú ruột. Năm Xuân mười sáu tuổi, bà thím ham giàu định ép gả cho một người Khách trong làng. Xuân không chịu nên trốn lên tỉnh ở. Đời Xuân từ đấy như một con thuyền không lái. Bước thêm một bước nào, Xuân cũng thấy ngập ngừng và xa lạ. Nhưng thời gian đã lần hồi xóa vẻ thơ ngây trong trí Xuân như lớp sóng triều chùi cát biển. Xuân đã trở thành bạo dạn và quen thuộc. Hai năm sau Xuân nghiễm nhiên là một vũ nữ lành nghề.

Xuân đến Huế chưa đầy hai tháng thì một hôm, nhân ngồi chơi trong vườn hoa bên bờ sông Hương, Xuân tình cờ gặp hai chị em Sinh. Nghe Cam nói ở quê mới lên, Xuân tự nhiên thấy quãng đời xưa của Xuân diễn nhanh qua trước mắt. Từ một cô gái quê chất phác, Xuân đã trở nên một vũ nữ có biệt tài. Trong hai năm, Xuân đã đi theo những bước “Lầm” và tự bán cho mình cảnh “Dối”. Nhưng sau quãng đời mập mờ sa ngã, Xuân có được một cái nghề. Chính nghề ấy đã nuôi sống Xuân và nới quyền tự do của Xuân một ít. Từ đấy Xuân đã làm chủ được mình. Cam hôm ấy là hình ảnh của Xuân hai năm về trước. Con đường Xuân đã đi Xuân không muốn ai theo nữa. Xuân tin ở chí cương quyết của mình và ngờ lòng yêu đời của kẻ khác. Và Xuân nghĩ: Một cô gái quê lạc giữa thành thị là một con chim non tự dấn mình trong một cái lồng son quá đẹp và quá rộng. Con chim ấy không bao giờ trở về đồng nội. Hay trở về với tiếng hót kém trong, với sắc lông kém đẹp. Để cho Cam bị đánh lừa, Xuân không nỡ. Xuân muốn tìm một nguồn an ủi bên áng hương thơm của một tâm hồn trong sạch. Xuân đã nghĩ kỹ và cho mình nghĩ đúng. Mặc dầu lúc ấy tiếng ganh ghét vẫn không quên vang dội trong lòng Xuân. Nhưng với những người dày dạn như Xuân, nét trong sáng vẫn quyến được lòng họ hơn mầu vẩn đục.

Chiều hôm ấy Xuân mời chị em Sinh về nhà. Qua hôm sau Xuân đi tìm một người Tây quen để khẩn khoản xin cho Cam một việc làm. Cam đàng hoàng làm cô giáo trường Tây sau đó hai tuần lễ. Cam càng tin ở lòng từ thiện của Xuân và coi Xuân như tình ruột thịt. Nhưng từ đó Xuân lại khuyên Cam thuê nhà riêng để ở. Xuân muốn giữ gìn thanh danh cho Cam, nhất đó lại là thanh danh một cô giáo trẻ tuổi. Nhưng chị em Sinh nhất định không nghe. Một hai đòi ở với Xuân cho có bạn. Năn nỉ nhiều lần mà Cam không nghe, túng thế Xuân phải dùng đến lòng quyết liệt và chí phản kháng.

Lúc ấy Cam không dám cãi ý Xuân nữa, nhưng cũng nói:

– Thôi, chị nói lại với giọng như khi trước thì em mới đi.

Xuân mỉm cười:

– Nói thế nào?

Cam như nũng nịu:

– Nói tử tế như khi trước kia. Vì vừa rồi chị có ý giận em.

– Thế Cam muốn Xuân nói dịu ngọt như mấy hôm trước phải không?

Cam nghiêng đầu cười:

– Vâng.

– Nhưng Cam có hứa với Xuân rằng Cam sẽ đi thuê nhà không?

Cam gật đầu không đáp. Xuân đến cầm hai tay Cam cảm động quá đến rơi nước mắt:

– Cam ơi! Cam yên lòng thuê nhà đi. Cam là nguồn an ủi của đời Xuân. Có lúc nào người ta lại quên không đi tìm nguồn an ủi của mình không? Xuân sẽ ở bên Cam mãi mãi.

Ngay chiều hôm ấy Cam đi thuê một căn nhà riêng ở gần chùa Diệu Đế. Nói là ở riêng nhưng cũng không khác gì ở chung. Vì trưa, tối nào hai chị em Sinh cũng sang bên nhà Xuân ở lại. Có lúc Cam đóng cửa nhà thuê luôn mấy hôm để sang ở bên nhà Xuân.

Hôm nay đến ở nhà Xuân, Sinh không thấy những phút vui xưa như lúc còn chị nữa. Lần nào ở nhà một mình, Sinh cũng thấy lòng nao nao muốn khóc. Xuân đi làm trong tiệm nhảy Lido gần múi cầu Gia-Hội. Tối nào cũng quá nửa đêm, Xuân mới về. Sinh thường ngồi học đợi Xuân về mới đi ngủ. Từ ngày mất chị, Sinh tự nhiên trở nên nhút nhát một cách lạ. Lúc thành phố Huế bắt đầu đỏ đèn, Sinh đã lật đật đem cái ảnh của Cam thường để trên bàn cất vào tủ. Ban đêm Sinh không dám nhìn cái ảnh của chị. Vì nụ cười của Cam trên ảnh xinh tươi quá, Sinh lẩn thẩn sợ đêm khuya nụ cười ấy có thể nức ra tiếng được.

Một hôm đi học về Sinh thấy Xuân ngồi khâu bên cửa sổ. Người Xuân lúc ấy có duyên một cách mơ màng và lộng lẫy. Ánh mặt trời rọi trong bát nước để trên bàn phản chiếu một thứ ánh sáng nhạt chờn vờn trên má Xuân. Hai mắt Xuân sáng lên rất huyền ảo. Sinh đã qua khỏi ngưỡng cửa mà Xuân vẫn không biết. Sinh len lén ra phía sau ghế rồi đưa hai tay bịt cặp mắt Xuân, Xuân ngừng khâu nhoẻn miệng cười:

– Ai đấy, phải em Sinh của chị không?

Sinh cố nín thở không đáp. Xuân tươi cười nói tiếp:

– Thả tay đi thôi, chị biết rồi. Chị đã ngửi được mùi hoa cam bay ra thơm ngào ngạt.

Sinh thả hai tay xuống, buồn rầu đứng nhìn xuống đất. Vô tình Xuân đã nhắc đến tên của chị Sinh. Thường này Sinh đi kiếm hoa cam để cắm bên ảnh chị. Chiều đến lúc thấy hoa gần héo Sinh lại đem bỏ trong rương áo quần.

Xuân quay lại thấy Sinh buồn rười rượi thì biết Sinh đang nhớ đến chị. Nụ cười đang nở trên cặp môi tươi thắm của Xuân tự nhiên tắt hẳn. Xuân để kim chỉ xuống bàn rồi đứng dậy nhìn Sinh nói sẽ:

– Em Sinh biết buồn, chị lại không biết buồn à? Em Sinh vui đi để chị cùng vui với chứ?

Nói xong Xuân với tay lấy cái áo, choàng ra phía sau lưng Sinh:

– Em mặc thử cái áo này. Xem chị may có vừa vặn không?

Sinh cảm động quá đưa cặp mắt thấm lệ nhìn Xuân. Xuân vừa luồn áo vào tay Sinh, vừa nói:

– Thật chị giỏi quá. Áo may phỏng chừng thế này mà cũng vừa.

Đoạn quỳ xuống một chân, Xuân kéo hai thân áo xuống rồi cài cúc. Sinh cảm thấy lòng miên man một cách êm dịu. Sinh cúi đầu xuống nhìn vô tình để hai giọt lệ rơi thẳng trên mái tóc Xuân. Xuân ngước mắt nhìn lên, đau đớn lắm nhưng cố mỉm cười:

– Mặc áo mới xong còn phải ăn cơm nữa, chứ phải khóc đâu.

Sáng hôm ấy Sinh đến trường trễ hơn mười phút. Sinh sợ quá rón rén đến trước bàn thầy định xin lỗi. Thầy Luân hôm ấy sắc mặt có hơi buồn nên đâm ra gắt gỏng:

– Tại sao anh đến chậm?

Sinh đưa tay mằn mò vạt áo trước:

– Thưa thầy tại đồng hồ nhà con chạy chậm.

Thầy Luân mỉm cười chế nhạo:

– Anh đã biết đồng hồ chạy chậm nhưng vẫn đến trễ như thường!

Sinh ấp úng:

– Thưa thầy con đến đây mới biết đồng hồ nhà con chạy chậm.

Thầy Luân vẫn giữ nụ cười mỉa mai trên môi:

– Thế là anh muốn nói trong hai cái đồng hồ – cái ở nhà anh và cái ở trường – anh chưa biết cái nào chạy sai. Có phải anh nghĩ thế không?

Sinh muốn lên tiếng đáp thì thầy Luân đã chỉ tay về phía lớp nói lớn:

– Thôi anh về lớp. Không có cái đồng hồ nào chạy sai cả. Sai là anh.

Sinh lẳng lặng cúi đầu đi xuống lớp. Lòng chán buồn và tức bực. Sinh cúi mặt nhìn quyển sách trên bàn nhưng cũng cảm biết có nhiều bạn đang quay lại nhìn Sinh. Sinh muốn giả vờ không biết nhưng hai mắt thấy choi chói như bị thôi miên. Sinh vội vàng lấy một chồng sách cao để ngay trước mặt.

Thầy Luân đã được tiếng nghiêm chỉnh nhất trường Khải-Định. Ai khó tính đến dâu cũng phải phục thầy về lòng ngay thẳng và cử chỉ đoan trang. Học trò ai phạm một lỗi gì nhẹ thầy cũng kiếm cách phạt cho kỳ được. Thầy ta thường thiếu sự khoan hồng may lại đủ tính tình vui vẻ. Học trò thầy nhờ vậy mà trở nên đứng đắn nghiêm trang chứ không lù khù hay bệ vệ. Sinh phục thầy lắm. Nhất là lúc nghe thầy giảng những bài luân lý với một giọng mê ly và chắc chắn. Những lời thầy lúc ấy như van lơn như kêu gọi thiết tha và đắm đuối vô cùng. Ở các lớp khác những giờ luân lý thường là những buổi học buồn tẻ nhất. Nhưng với thầy Luân thầy thường đem lời nói cho mượn tinh thần, lương tâm và lý trí nên những bài luân lý của thầy lúc nào cũng thấy cảm động và dễ nghe. Thầy còn cho Luân-lý là linh hồn của nhà trường và sau này của xã hội nên được thầy chăm nom từng chút.

Giờ học luân lý hôm ấy Sinh lơ đãng một cách vụng về gần như cố ý. Sinh chỉ nghĩ đến chuyện đến trễ và chuyện thầy mắt trước mặt học trò. Sinh buồn lắm nhưng không biết sẽ nói cho ai hay. Sinh tưởng nói được thì chắc Sinh đỡ buồn nhiều lắm. Với Xuân thì chắc không bao giờ Sinh dám nói. Vì Xuân sẽ buồn theo và để lộ những nét đau thương làm Sinh buồn hơn nữa.

Trọn giờ học hôm ấy Sinh không nghe được gì hết. Sinh hơi hối hận đã bỏ mất một giờ học rất quý. Nhưng lòng Sinh thì muốn về ngay. Sinh cho một buổi sáng gặp rủi thì trọn ngày ấy không thể nào gặp may nữa. Sinh muốn ngày ấy qua thật nhanh để cầu mong một ngày tươi sáng khác. Sinh tin bóng tối ban đêm sẽ xóa nhạt những nỗi u buồn của ban ngày. Sinh tin và lòng Sinh đầy hy vọng.

Lúc nghe tiếng trống trường bãi học, Sinh thích chí quá như được nghe những lời an ủi. Sinh cắp sách vở ra về lòng nhẹ nhàng và sung sướng như vừa cất xong một gánh nặng.

Buổi trưa hôm ấy, Sinh đi một mạch về nhà không vẩn vơ đứng chơi dọc đường như mấy bận trước.

Mới đặt chân vào nhà, Sinh thấy ngay Xuân đang dọn cơm lên bàn ăn. Sinh cảm thấy những nỗi buồn tiêu tan đâu mất. Vì lắm lần Sinh đã thấy bên Xuân sự che chở hoàn toàn và nguồn an ủi êm đềm và lặng lẽ. Sinh lăng xăng định đến để sách vở trên bàn thì bỗng đứng dừng lại. Sinh đăm đăm nhìn chiếc đồng hồ, lẩm bẩm:

– Cái đồng hồ này có ma chị ạ.

Xuân đặt dĩa cơm lên rồi vừa xới cơm vừa nói:

– “Ma chérie” ấy à phải không em?

Sinh nhìn Xuân mỉm cười:

– Không phải chị ạ.

Xuân đưa cánh tay che miệng cười khanh khách:

– Không phải thì đã đành. Chỉ có dân công tử mới hay gọi ma chérie. Nhưng sự thật thì họ coi như ma quỷ…

Nói chưa dứt câu Xuân đã thấy hối hận ngay. Vì đáng ra Xuân không nên nói những chuyện ấy cho Sinh biết. Xuân biết thế, nhưng gặp lắm cảnh buồn trong nghề, Xuân không thể làm lơ được. Xuân nói cho Sinh nghe để tự mua sự hối hận và để lần sau nói nữa. Vì Xuân nghĩ sự hối hận sẽ thoảng qua rồi mong hết được. Nhưng nỗi uất lòng không để cho người khác hay thì có thể đau khổ đến trọn đời.

Thấy Xuân tự nhiên dứt phăng câu nói, Sinh liền nói tiếp:

– Chị tính, sớm hôm nay em đến trường trễ hơn mười phút, thế mà về nhà lại không thấy đồng hồ trễ phút nào.

Xuân đặt tay trên vai Sinh nói sẽ:

– Thế sớm hôm nay em đến trễ à? Em có bị thầy mắng không?

Nghe Xuân nhắc đến chuyện thầy mắng, Sinh đã thấy buồn buồn. Bên Xuân, Sinh tự nhiên như trẻ em. Sinh muốn tủi, muốn hờn, để nghe Xuân dỗ. Biết Sinh buồn, Xuân dịu lời nói tiếp:

– Nếu thật em bị mắng thì lỗi tại chị. Vì sớm hôm nay, chị quên thức em dậy trước bẩy giờ. Lúc thấy kim đồng hồ chỉ bẩy giờ mười chị sợ quá. Thức em dậy lúc ấy thì em sẽ lật đật đi đến trường và nhất định không ăn cháo. Chị liền đến quay kim đồng hồ lui lại gần nửa giờ. Lúc em đi học rồi chị mới chữa lại.

Xuân từ từ hạ giọng. Đến sau cùng những tiếng của Xuân chỉ để bật ra như hơi thở. Sinh quay đầu nhìn Xuân rồi như hối hận đã làm Xuân buồn, Sinh nhìn ra đường nói lớn:

– Chị lầm chị ạ! Sự thật thì em không bị quở. Vì chính thầy cũng đi trễ. Em đang nghĩ một cái tính đố trong ấy có nhiều tính cộng quá.

Xuân tưởng thật nên sung sướng ngay:

– Tưởng gì chứ tính đố thì dễ lắm. Em cứ ăn những cuộn rau muống của chị nấu đây. Rồi em muốn làm mấy cái tính cộng cũng trúng hết.

Xuân – Sinh nhìn nhau mỉm cười rồi lặng lặng đến bàn ăn. Lòng Sinh phập phồng lâng lâng như dòng tơ vờn trước gió.