← Quay lại trang sách

- X -

Sáng sớm hôm nay trời tươi như mộng. Vì nhằm hôm thứ hai ngày nghỉ của vũ nữ nên Xuân dậy thật sớm. Bà Lai nằm chung một giường với Xuân đang còn ngủ mê man. Tối hôm qua Sinh dẫn bà đi chơi về đã khuya. Cảnh thành thị tuy náo nhiệt tưng bừng nhưng cũng không quyến giữ bà được lâu. Có lúc Xuân, Sinh thấy cách giữ bà Lai là chuyện rất nguy hiểm. Vì thế nào bà cũng hỏi đến Cam và sự bí mật dần dần sẽ lộ hẳn ra. Nhưng nghĩ đến sự vắng mặt của bà, hai người lại đâm ra buồn.

Bà Lai cũng biết Xuân là vũ nữ. Buổi tối mỗi lần Xuân đi vắng, thì Sinh nói với mẹ là Xuân đi dậy thêu. Bà Lai yêu tính tình của Xuân lắm. Nhất là lời nói mềm mỏng và lòng từ thiện của Xuân.

Xuân thường xuống bếp gần trọn ngày để làm những thức ăn ở Bắc. Bà Lai từng sống trong cảnh đời giản dị quen nên không muốn Xuân phải bận lòng vì mình lắm. Nhưng Xuân thì có chịu nghe đâu. Lúc nào cũng hứa sẽ không bầy vẽ gì nhưng lúc dọn cơm lên thì cá thịt đầy mâm.

Bà Lai thấy có mình Xuân chịu tốn kém quá nên kiếm cách trốn Xuân đi về quê. Nhưng Xuân thì có dại gì. Bao nhiêu quần áo của bà, Xuân đem cất vào tủ hết. Bà có hỏi thì Xuân đã lấy cớ mất chìa khóa. Bà Lai cũng biết Xuân kiếm cớ để lưu mình ở lại nên cảm động lắm.

Tối hôm qua Xuân đã hứa sẽ dẫn bà Lai và Sinh đi xem ít phong cảnh ở Đế Thành. Xuân dậy lúc chuông đồng hồ chợ Đông-Ba mới gõ bốn tiếng. Xuân muốn làm gà và cơm để trưa ăn khỏi phải trở về nhà.

Xuân ra vào và làm cơm yên lặng quá. Bà Lai và Sinh vẫn ngủ yên không hay biết gì hết. Lúc hai mẹ con Sinh dậy thì cơm nước đã xong đâu vào đấy. Sinh trách Xuân lấy lệ còn bà Lai thì cảm động quá đến không nói được lời gì.

Trên con đường tắm nắng đưa thẳng lên núi Ngự-Bình, Xuân, Sinh tự nhiên thấy lòng vui phơi phới. Xuân bỏ chiếc nón Huế xuống che trước chân, rồi mỗi bước bước đi chiếc nón lá lại kêu lạch cạch nghe rất vui tai. Bà Lai cắm cúi đi tới, thấy Xuân – Sinh vui đùa với nhau thì bà ta cũng lên tiếng cười theo. Xuân nghe có gió mát thổi qua hàng thông thì càng đi chậm lại. Mùi hương thông tản mác khắp đồi. Xuân đứng dừng lại ưỡn ngực hít mạnh ra chiều sung sướng lắm. Đi qua khỏi một con đường cong, thấy mấy đỉnh núi xanh chập chờn trong màn sương đậm, Xuân liền đưa nón lên cao như chào đón. Xuân cảm thấy lòng lâng lâng thoảng như không bận phiền gì hết.

Lên đến đỉnh đồi, Sinh bước chậm lại. Gói cơm Sinh mang trước lúc ra đi đã bắt đầu thấy nặng. Sinh không nói ra nhưng thấy cử chỉ của Sinh, Xuân cũng đoán biết được. Bên cụm thông thưa lá khít mé đường, Xuân bèn mời bà Lai và Sinh nghỉ chân một lát. Bà Lai hớn hở nhận lời ngay vì đi đường núi không quen bà đã thấy hai chân tê mỏi. Xuân ngồi tựa mình bên gốc thông già, nhìn xuống chân đồi rồi nói lớn:

– Em Sinh ạ, chị có cái ý này hay quá.

Sinh đứng treo gói cơm trên một cành thông khô lá nói tiếp:

– Ý gì chị?

– Chị là văn sĩ em ạ.

Sinh tươi cười:

– Em cũng không lạ gì!

Xuân mỉm cười:

– Không lạ. Nhưng sự thật chị có phải là văn sĩ đâu.

Sinh dịu giọng nói:

– Theo em thì người nào hiểu được văn, người ấy có thể gọi là văn sĩ. Vì hiểu nổi văn không phải là một chuyện dễ. Vì vậy chị hãy nói câu chị sắp nói đi. Em cũng gắng hiểu để được trở nên văn sĩ cho vui.

Sau một nhịp cười dòn Xuân nói tiếp:

– Câu chị sắp nói đây thì ai cũng hiểu. Và nhờ vậy thiên hạ đều trở nên văn sĩ hết. Chị muốn hỏi em mấy thửa ruộng vuông dưới chân đồi điểm đầy những gốc lúa mới gặt, em cho giống với cái gì?

Sinh đưa mắt nhìn xuống đồi một lát rồi đáp:

– Giống những bàn cờ đi mãi đến chân làng xa…

Xuân ôm bụng cười nói theo:

– Của ông Hoàng Đạo trong bài “Mái nhà ngói”.

Sinh biết Xuân tìm ra chỗ mình đánh cắp cũng lớn tiếng cười theo để chữa thẹn:

– Mái nhà tranh chứ.

Xuân nói sau một nhịp cười lớn:

– Giỏi nhỉ? Em đọc kỹ quá.

Xuân Sinh lại nhìn nhau cười nức nở.

Bà Lai quay lại nhìn hai người rồi nói:

– Theo tôi thì những thửa ruộng giống với mấy miếng sắt Tây có chích những lỗ nhỏ để mài sắn.

Xuân reo lên cười:

– Bác nói đúng lắm. Theo cháu thì nó giống với cái bàn chải khổng lồ.

Sinh vỗ tay nói lớn:

– Văn sĩ vạn tuế! Ba chúng ta đều là văn sĩ!

Không hiểu Sinh nói gì, bà Lai cũng móm mém cười to.

Ngồi nghỉ đâu được mười lăm phút, ba người lại phủi áo đứng dậy sắp đi nữa. Xuân liền tiến đến gần Sinh nói sẽ:

– Em để chị mang gói cơm cho.

Sinh dấu gói cơm sau lưng nói lớn:

– Không, chị để em mang cũng được.

Xuân năn nỉ:

– Để chị mang một quãng rồi chị sẽ trả lại cho em.

Sinh cũng chỉ đợi Xuân nói một lần nữa là đưa gói cơm cho Xuân ngay:

– Đây, chị đã đòi thì sau này mỏi chị chớ trách em.

Xuân cầm gói cơm nhắc lên nhắc xuống thấy hơi nặng thì nhìn Sinh nói:

– Em cho chị mượn sợi dây nịt của em để vấn quanh gói cơm xách cho tiện.

Sinh lẳng lặng tháo sợi dây nịt ra.

Xuân lấy sợi dây nịt choàng quanh gói cơm. Lúc xách lên thấy nặng Xuân chau đôi mày lại.

Trên đỉnh núi Ngự chiều hôm ấy vắng người và trông thanh đạm như bầu tiên giới. Xa xa về phía hoàng thành, giòng sông Hương gạch một đường trắng dài giữa một vùng xanh thẳm. Bà Lai lên đến đỉnh núi thì mệt nhoài không nghĩ đến việc ngắm phong cảnh nữa. Còn Xuân , Sinh chạy khắp nơi quấn quít nhau như hai con chim ngàn về đến tổ. Xuân bước lên đứng trên một tảng đá cao che tay ngang trán nhìn ra xa rồi goị Sinh :

– Em Sinh có thấy chùa Linh-Mụ ở đâu không?

Sinh quay mặt nhìn về phía nguồn sông Hương đưa tay chỉ liều:

– Chị chưa thấy à? Chùa Linh-Mụ ở trên đồi thông đối diện với ngọn đồi ở Long-Thọ đấy.

Xuân mỉm cười:

– Thì ai chẳng biết. Nhưng hỏi em đã thấy tháp chùa ấy ở đâu chưa.

Sinh hơi lúng túng. Trong lúc đưa mắt tìm quanh, Sinh cũng gắng nói bướng:

– Em hỏi thật nếu chị chưa trông thấy thì để em chỉ dùm cho. Chứ chị hỏi khéo em thì em không chịu đâu.

Xuân đưa tay níu một cành thông vươn ra, gật đầu ra vẻ ngây thơ đáp:

– Ừ, hỏi em đấy. Em chỉ đi.

Lần này Sinh mới chịu thua:

– Thôi xin chịu chịu. Em không thấy.

Xuân vừa đưa tay giữ tà áo bị gió tung vừa cười nói:

– Đã không thấy lại làm ra vẻ thạo mãi, ở đây thì không thấy tháp rồi. Nhưng đứng đằng kia…

Xuân đưa tay về lối lên đỉnh Ngự nói tiếp:

– …thì thấy rõ lắm. Em không tin thì lại đứng đấy mà xem.

Sinh nhìn Xuân mỉm cười:

– Thì ra chị cũng không trông thấy ngọn tháp như em.

Xuân đưa tay đập vai Sinh cười như nắc nẻ.

Mặt trời đã dần dần dịu ánh nắng. Gió mát thổi qua mấy hàng dương liễu đã tung những ngọn lá kim rơi xuống đất. Về phía xa, sau đèo Ải-Vân, ánh mây hồng nức nở thêm những màu khó tả. Xuân và Sinh câm lặng một hồi lâu tự nhiên cảm thấy hơi lạnh. Trong hai người, người nào cũng muốn người kia lên tiếng trước. Nhưng rốt cuộc sự yên lặng vẫn tràn lan ra mãi. Xuân và Sinh liền lững thững quay về chỗ bà Lai nằm khi trước nhưng không thấy bóng bà đâu hết. Sinh lên tiếng gọi lớn. Nhưng đáp lại lời Sinh chỉ có tiếng dội sau đồi thông cao vút. Vẻ sợ sệt đã hiện rõ ràng trên nét mặt hai người. Sinh nhìn xuống chân núi nói sẽ:

– Có lẽ mợ em đã đi xuống núi rồi.

Xuân tuy không tin nhưng cũng muốn vin lấy cớ ấy để hy vọng:

– Ừ cũng có lẽ.

Hai người lại hấp tấp đi xuống núi. Đi chưa được năm phút, Sinh đưa tay chỉ về phía rừng thông giữa lưng núi nói lớn:

– Chị ơ! Mợ em ngồi kia kìa.

Xuân cũng vừa nhìn thấy nên hai người nhắm rừng thông chạy tới. Giữa lúc ấy bà Lai đưa tay vẫy hai người lia lịa. Nhưng chạy chưa đến nơi, Xuân , Sinh không ai bảo ai tự nhiên đứng dừng phăng lại. Xuân quay lại nhìn Sinh rồi hai người cùng nhìn xuống đất để dấu sự sợ hãi.

Bà Lai đứng dậy đến trước hai người nói sẽ:

– Tôi đang ngồi trên đỉnh núi tự nhiên thấy nóng lòng một cách lạ. Tôi cũng không hiểu tại nắng hay tại chuyện gì không may sắp xẩy ra. Tôi lững thững đi xuống núi để tìm bóng mát thì thấy ngay bên này có rừng thông. Tôi vội vàng đến đây để núp nắng.

Quay lại nhìn cái mả gần đấy bà Lai nói tiếp:

– Ngồi trên bờ thành cái mả này tôi tự nhiên thấy lòng buồn quá. Tôi cũng không biết tại sao. Có lẽ tôi nhớ nhà quá rồi đâm ra buồn vơ vẩn cũng nên.

Sinh từ từ ngẩng đầu lên nhìn mẹ. Bà Lai với một giọng não nùng hơn trước nói:

– Lại còn chuyện khó tin này nữa. Tối hôm qua tôi chiêm bao thấy tôi đi qua đồng mộ Hòa-An để thăm mả nhà tôi. Tôi ngạc nhiên hết sức lúc thấy bên mộ thầy nó có cái mộ của ai mới đắp. Sự thật thì mộ thầy nó ở trên mô đất cao, chung quanh không có mả mồ của ai hết. Chuyện ấy sáng dậy tôi quên mất. Mãi đến lúc thấy cái mộ này tôi mới nhớ sực lại.

Xuân Sinh lại ngước mắt nhìn nhau, toàn người run run như lá cây bị gió chuyển. Bóng tối chiều hôm đã bắt đầu phủ muôn vật một màu ảm đạm. Sau lũy tre thưa lá, ngọn khói trà còn quấn quít hôn mái am tranh. Muôn tiếng huyền bí đều nghe rõ hơn trước.

Sinh liếc Xuân rồi cất tiếng khẽ nói:

– Chuyện chiêm bao lúc nào cũng trái với chuyện thật. Mợ nghĩ làm gì cho nhọc trí.

Bà Lai tươi tỉnh:

– Mợ nói chuyện thế chứ có nghĩ gì đâu. Mợ thường chiêm bao có lẽ tại thận mợ yếu. Hôm trước chính thấy lang Cung ở làng Hòa-Mỹ cũng có nói với mợ thế.

Xuân liền vin cớ ấy nói tiếp:

– Lời ông lang Cung nói thế mà đúng đấy. Thôi mời bác về nhà chẳng trời sắp tối rồi.

Bà Lai lẳng lặng đi trước. Xuân và Sinh theo sau. Đi được mấy bước Sinh quay lại nhìn nấm mộ dưới cụm thông. Hai mắt Sinh thấm đầy cả lệ. Nấm đất ấy là mộ của Cam.