Một Lương Tâm Trong Sương Mù

Một Lương Tâm Trong Sương Mù

Tổng số chương: 7

Có lẽ một định mệnh trớ trêu đã khiến cho tôi buổi chiều hôm ấy, không đi đánh mã-chược. Sống cuộc đời độc thân, với một số lương khá hậu, tôi thả những ngày tháng của đời tôi theo dòng thời gian như những đứa bé con thả những thuyền giấy trên dòng nước cống.

Phải rồi, có một ngày kia, thuyền bị thẩm lậu, hay vướng vào một đống cát, hay xô xuống một cái hang nào. Nhưng bây giờ, hãy cứ được nhởn nhơ mà xuôi giòng đã. Tôi theo anh em đàn đúm chơi bời, rồi thì chơi chán, tôi nghiện đánh mã-chược.

Ít lâu nay, sự chơi mã-chược ở Hà-nội đã thành một cái mốt. Ở bất cứ một nhà thượng lưu nào, cứ đêm đến và ngày chủ nhật, người ta thường nghe tiếng lát chát của những quân bài xương nện xuống bàn. Cứ chiều, cơm xong, là tôi đi lại nhà những bạn quen, rồi chúng tôi “xoa” cho tới khuya mới về ngủ, ngủ để mai đi làm.

Vì là những công chức có phận sự bắt buộc, lại không phải là ngày thứ bẩy, cho nên chúng tôi chơi ít khi tới sáng.

Nhưng mấy hôm nay vì có mấy tay máu mê ở xa về, chúng tôi chơi liền bốn đêm cho tới bạch nhật.

Cái nghề thế, chơi quá thì đâm chán, bất cứ chơi cái gì. Lại cũng chán khi người ta đã mệt, vì phải thức suốt mấy đêm.

Buổi chiều nay ăn cơm xong, tôi thấy cơ thể bải hoải và ruột rỗng hốc. Hồn thì bâng khuâng vơ vẩn làm sao. Mà ngực thì lại thấy hơi khó thở..

Không biết từ đâu, một ý nghĩ — có lẽ đây là cái sức mạnh tự nhiên của sự sống nó đánh lại thăng bằng cho những cuộc đời bị lệch lạc — ngao ngán bỗng đến với tôi. Tôi bỗng thấy hôi-hối làm sao ấy. Tôi tự hỏi tôi một cách gay gắt: sao tôi lại có thể sống liên miên trong cờ bạc một cách vô ý thức như thế?

Ấy thế rồi tôi nhất định chừa mã-chược, cũng như tôi đã nhất định chừa bao nhiêu thứ trong đời tôi. Thì ra trong người chúng ta, Thượng-đế đã đặt vào đấy một cái chuông, nó rung lên khi chúng ta đi sai đường. Kẻ sống có ý thức thì biết theo nó. Mà kẻ không, thì cứ bịt tai bước đi, chẳng nghe. Ấy thế rồi thì lầm lạc, tội lỗi, và gì gì nữa xẩy ra.

Tôi nghiệm thấy rằng loài người, bất cứ ai cũng chỉ là những đứa trẻ con ngu dại, không thể tự mình đi thẳng trên con đường số mệnh đã vạch. Cho nên vì một lòng trắc ẩn và cái bổn phận — ta có thể gọi là bổn phận không? — phải che chở cho những tác phẩm mà mình đã sáng tạo ra, Thượng-đế đã đặt một ổ chuông tự động vào ngay trong ta?

Buổi chiều nay, tiếng chuông ấy rên lên. Tôi vụt nhận thấy rằng tôi sống một cách vô nghĩa quá. Cái gì lại cứ cơm chiều xong là đi đánh bạc cho hết đêm, để đến sáng hôm sau đi làm mệt phờ ra, để ăn mất ngon, và để rồi cuối tháng chạy tiền méo mặt. “À, không không! Ta phải thôi mới được “. Tôi tự nhủ tôi như thế.

Tuy một hoàn cảnh không thích hợp đã gây ra cho tôi một cuộc đời buông trôi thả lỏng, nhưng tôi vốn là một người có nghị lực. Cái gì tôi đã nghĩ là phải, tôi làm theo ngay. Và không phải, tôi thôi ngay.

Hôm nay, tôi định thôi đánh bạc cũng như trước kia tôi đã thôi hút thuốc phiện khi gần nghiện, thôi dan díu với những cuộc tình duyên nhăng nhít nó chỉ có mỗi tính cách là làm bệ rạc con người.

Thôi đánh mã-chược, thôi cờ bạc thì phải rồi. Nhưng ngồi nhà không thì buồn lắm, mà giờ này không phải là giờ đi ngủ mặc dầu hôm qua tôi đã thức.

Tôi vớ ba-toong, rồi tôi cửa đi ra.

Tôi cũng định la cà quanh bờ hồ mấy vòng để nhìn giời, nhìn đất, nhìn người, rồi về ngủ cho nó ngon thôi. Nhưng đây, phải chăng là một định mệnh trớ trêu đã đặt ngang đời tôi một vấn đề nan giải để buộc tôi phải suy nghĩ về kiếp người, về cuộc đời, về lòng mình.

Nhà tôi ngõ Thịnh Đức. Đáng nhẽ tạt về phía Đấu Xảo, rồi cứ thẳng đường lên phố Gia Long ra Bờ Hồ. Đằng này không, tôi quay về phía Ga, rồi tôi đi về phía Cống Vọng. Lúc ấy vào khoảng tám giờ, người đi lại vắng. Tôi thấy thú lắm. Tôi tung tăng, vung ba-toong đi như một kẻ sung sướng. Ấy loài người cứ thế, sống trong chốn ồn ào một dạo thì thích về chốn tịch mịch, rồi ở trong chốn tịch mịch một dạo lại muốn ra chỗ ồn ào.

Những thay đổi ấy đem vị mới lại cho sự sống, nhưng chính vì thế mà loài người khổ, khổ vì chỗ không biết bằng lòng cái đang có của mình.

Tôi đi quá dốc Khâm Thiên thì ầm ầm một đoàn ô-tô chạy từ Hà-nội xuống làm bốc bụi tung giời. Mà xa xa, ở miền Cống Vọng lấp lánh những chiếc ô-tô từ thành Nam chạy lên.

Ồ, mình đi hóng mát chứ có phải đâu đi hóng bụi! Ấy thế là tôi tạt ngay vào con đường Hoàng-cao-Khải. Con đường Hoàng-cao-Khải thì tôi đã biết nó rồi, đó là chỗ thành phố đổ rác, mùi hôi bốc lên nồng nặc. Có thú gì mà la cà ở đấy.

Ấy thế mà không hiểu sao tôi cứ đi, thủng thẳng đi mãi.

Ở đời này, có nhẽ có những định-mệnh nó theo đuổi gót chân ta, rồi đẩy ta vào những con đường mà Thượng-đế bắt ta phải đi.

Ở đây đèn điện thưa, nhưng nhờ cái đang trong mùa hè và vào đầu tuần trăng, nên cũng không đến nỗi tối lắm. Với lại về mùa nực chỗ này mát, mặc dầu có những mùi nằng nặng xông lên.

Con đường này hai bên hồ nước, lại không phải là mạch máu của sự giao thông trong thành phố, nên vắng, vắng lắm, vắng tanh.

À, thì vắng nhé, lại mát nhé, lại không có bụi nhé, thì chịu một tí mùi nằng nặng có sao. Có lẽ vì nghĩ thế nên một cặp trai gái cứ khoác tay nhau thủng tha thủng thỉnh đi đi lại lại mãi.

Cặp trai gái ấy, khi đi quá cái miếu ở bên vệ đường thì tôi trông thấy.

Những cặp trai gái đưa nhau đến những con đường vắng tình tự, ở Hà-nội này thiếu gì. Cho nên trông, mà tôi cũng chẳng để ý. Và có lẽ cặp trai gái đang say sưa câu chuyện cũng không thèm đế ý đến tôi.

Cặp trai gái ấy đi trước, tôi sau, đôi bên cách nhau chừng trăm thước. Họ đi chậm, tôi cũng đi chậm. Họ có việc họ, tôi có việc tôi.Thế thì cứ đi, để ý tới nhau làm quái gì! Tâm lý ấy, phần nhiều dân Hà-nội đều như thế, chứ không như ở các tỉnh nhỏ, tầm quan sát hẹp cho nên cứ phải soi bói đến nhau.

Ở Hà-nội này, có những người ở sát vách nhau hàng hai ba mươi năm mà còn chẳng biết rõ mặt nhau nữa là.

Đi đến giữa đường, vì muốn hóng mát, tôi dừng lại. Còn họ thì cứ đi.

Rồi thì từ đấy mải nhìn ánh điện, và ánh trăng thi nhau giỡn trên mặt nước, tôi cũng không biết rằng có cặp trai gái ở trên con đường ấy nữa.

Người ta ở đời, cái gì mà chẳng quen, nữa là cái mùi hôi!

Thoạt mới vào con đường này, thì khó chịu về cái mùi hôi nồng nặc của rác rưởi đấy. Nhưng bây giờ thì tôi cơ hồ như đã không thấy nữa. Rồi thì vì mát quá, tôi ngồi ngay xuống vệ có sát hồ, lấy ba-toong chọc chọc xuống nước chơi như một đứa bé vô tư lự và sung sướng nghĩ đến giấc ngủ của mình, sung sướng tự nhủ mình, chiều hôm nay mình đã ngoan ngoãn, sung sướng chiều nay mình đã chừa được cờ bạc. Hay nếu còn có đánh nữa thì cũng chỉ tối thứ bẩy thôi.

Tôi đang vụt những ngọn rau muống bị giạt bè trôi vào bờ, thì những tiếng cười giòn giã nổi lên ở sau tôi. Tôi quay lại. Thì ra một cặp trai gái ăn mặc có vẻ thợ thuyền đang khoác tay nhau vừa đi vừa đú đởn. Rồi thì cách sau họ chừng trăm bước, một cặp nữa, cậu cao lênh khênh, mà mợ thì lùn tịt, rồi thì sau cái cặp này, ở tận đằng xa xa về phía trường Thể Dục kia, lại một cặp nữa mà tôi nhận ngay ra là cặp mà tôi đã gặp khi bước chân vào đây.

Tội bụng bảo dạ:

– Cha ở đâu mà vỡ tổ lắm thế? Hôm nay được ngày hay sao đấy?

Ấy thế rồi sung sướng vì đã nói được một câu hóm hỉnh, tôi tủm tỉm cười. Và rồi thì tôi không nghĩ đến chuyện đập nước đánh bèo nữa. Tôi để ý nhìn ngắm họ.

Cặp cậu cao mợ thấp đi về phía Khâm Thiên, rồi đi thẳng. Cặp thợ thuyền thì đến đầu miếu lại quay lại. Cha! cậu mợ nói những câu chuyện gì bù khú mà cười khiếp thế?

Ấy thế rồi lòng tôi cũng nao nao muốn cười lên với họ. Rồi thì vụt cái tuổi hai mươi với những chồi tươi của nó chạy về với tôi như ngựa phi. Rồi thì trong một khoảnh khắc tôi sống lại, tất cả cuộc tình duyên của tuổi thanh niên.

Nói thế không phải bảo tôi đã già khụ đâu. Tôi mới có ba mươi ba. Ở nước An-nam, cái tuổi ấy thì hơi lão một tí rồi đấy. Nhưng ở nước ngoài, thế thì còn là trai tơ.

Mà thật ra thì còn là trai tơ thật. Bởi tôi đã, lấy vợ lần nào đâu? À! Dăm bẩy cuộc tình duyên đứt đoạn, và mấy đường tơ khô đét, kể gì. Người ta kể là kể cái người mà người ta «trước-bạ» ở trước tòa Đốc Lý kia chứ.

Ấy thế rồi thì tôi vụt sung sướng nghĩ đến cuộc nhân duyên mà thày mẹ tôi sắp định cho tôi. Hay bắt buộc tôi phải «ra Đốc Lý» thì cũng thế.

Kể thế mà mình cũng chơi kia đấy. Ba mươi ba tuổi đầu rồi, mà sắp lấy con quan, mà lại con quan mới có mười chín tuổi. Mà cô mười chín tuổi ấy lại giàu. A ha! kể ông Tơ bà Nguyệt cũng chiều mình đấy chứ.

Thì ra ở đời này, cái gì cũng lây thật. Mình bị lây tình ái của cái bọn đem nhau tới con đường chẳng thơm một tí nào này. Liền lúc đó tôi nhất quyết gửi thư về cho thày mẹ tôi, giục thu xếp cho chóng xong cuộc hôn nhân đi, chứ sống mãi cái đời cô đơn lêu lổng như thế này cũng thấy buồn rồi. Cứ để cho các cụ than thở mãi: «Lớn tồng ngồng thế kia mà chẳng vợ con gì», kể cũng thương. Thôi, ta phải nhất quyết chẳng kén cá chọn canh nữa.

Vừa lúc tôi tự nhủ tôi như thế, thì cặp tình nhân đầu tiên mà tôi gặp khi bước chân vào con đường đi qua hồ Bẩy-Mẫu đi tới gần chỗ tôi ngồi, rồi thì… rồi thì…tôi trông rõ ràng là chị Cát vợ người bạn thân nhất của đời tôi.

Sự bất ngờ nó đến một cách đột ngột và ghê gớm quá như thế, làm cho tôi choáng váng cả đầu óc.

Dẫu rằng trông thấy rõ mười mươi, mà tôi vẫn còn ngờ rằng trong nắng quáng đèn lòa.

Tôi vẫn nhủ tôi:«Không có thể như thế, không có thể như thế. Chị Cát, người nghiêm trang, đứng đắn thùy mị như thế, lại đã có hai con với chồng rồi, lại là con nhà thế gia vọng tộc lấy chồng từ tuổi đầu xanh.»

Rồi thì, tôi lại tự hỏi tôi: «Hay là người giống người?»

Nhưng đâu lại có sự người giống người đến như thế được? Giống từ dáng đi, nước da, khuôn mặt, khổ người, nghĩa là giống tất, tất, nghĩa là đích thị là chị Cát rồi còn gì.

Tuy thế mà lòng tôi vẫn không tin, hay vì nó không muốn tin mà thành không.

Trong đời, có những sự thực nó đến với ta một cách tàn nhẫn quá, trái cả với những tư tưởng, những cảm giác, những thói quen hàng ngày, nên cho dù nó đứng lù lù ra đấy, ta cũng không tin.

Nhưng, lần này thì tôi phải tin rồi. Chị Cát và người tình của chị ấy đi đến đầu đường thì lại quay lại. Không hiểu tại sao. Có lẽ tôi sợ chị ấy nhận thấy tôi, tôi vội vàng nép ngay xuống lề cỏ, rồi tôi mở to hai mắt.

Đích rồi! Đích thị là chị Cát rồi!

Thốt nhiên, ruột tôi như có một cái gì nhọn xói vào. Và trời đất dường như long lở cả chung quanh tôi.

Tôi nằm chết dí trên cỏ, cảm thấm thía thấy sự long lở của lòng tôi lại càng ghê gớm hơn tất cả.

Chị Cát! Chị Cát mà còn có ngoại tình thì thôi, thì thôi hết. Người ta còn tin cái gì được nữa. Rồi thì, khủng khiếp chưa, tôi thấy tôi không tin được cả chính tôi nữa.

Danh sách chương


Sách tương tự