Vốn Liếng Một Đời

Vốn Liếng Một Đời

Tổng số chương: 12

Anh T.

Nhận được thư này, tôi chắc anh sẽ ngạc nhiên không ít. Anh ngạc nhiên không phải vì thấy tên tôi đề ngoài bì thư. Tôi tin không phải thế, mà chính lá thư này. Lá thư gợi cho anh nhớ lại một liên hệ giữa anh và tôi đã năm, sáu năm qua, biệt tăm, mất dấu. Tôi muốn nhắc tới cái liên hệ đằm thắm giữa tôi và anh qua chiếc gạch nối máu mủ là Mị, đột nhiên bị cứa đứt sau khi tôi gặp Hạnh. Sau khi anh được Mị cho biết liên hệ giữa tôi và Hạnh đang ở giai đoạn nào. Hay rõ hơn, từ ngày tôi bị đổi khỏi Saigon ra Trung, xong trở về thành phố vào cuối năm 63. Kể từ buổi gặp anh lần cuối cùng với Tập ở một phòng trà bên cạnh cái bùng binh chợ Chính (không biết anh còn nhớ Tập không nhỉ? Tập. Cái thằng ưa đi với tôi, mập mập, phúc hậu ấy mà. Cái thằng lúc nào cũng hề hề cười được. Cái thằng đã từng gục gặc đầu nói chuyện với anh về tuổi trẻ, về chiến tranh, về sự sống, về tương lai nào đó, gần hay xa, nhưng sẽ có, sẽ đến. Cái thằng mà từ thuở đó, nó đã hút Bastos xanh, trong khi anh chỉ có thể hút Salem mà thôi. Chắc giờ anh đã kịp nhớ ra nó. Thật may mắn cho nó, nếu quả thật anh đã nhớ ra. Thôi thì tôi cứ coi như anh đã nhớ ra nó đi, để báo với anh rằng nó đã chết. Đã mồ yên mả đẹp, từ năm ngoái lúc nó vừa tròn hai mươi lăm tuổi? Lúc người yêu của nó bắt đầu có thai và đang trong sẵn sàng lễ cưới hỏi. Nó chết ngày mồng bảy Tết Mậu Thân vừa rồi đó anh, Ừ, mà tôi thật nhảm, đem chuyện đó ra nói với anh làm gì. Chết là hết. Không còn gì để bận tâm nữa, chiến tranh đã làm chúng ta trở nên dễ dãi, bình tĩnh thản nhiên với cái chết. Vì điều đáng lo là những người còn sống, còn lây lất sống chờn vờn kia, phải không anh? Vâng, thôi chúng ta bỏ chuyện đó qua một bên.

Anh T.

Bây giờ tôi muốn đi vào cái lý do chính, cái lý do căn bản đã thôi thúc tôi phải viết lá thư này cho anh. Lẽ ra, lá thư được viết từ năm ngoái, năm kia lận. Từ cái ngày mà tình cờ tôi dọ hỏi được tin anh, làm trại trưởng một trại Lực Lượng Đặc Biệt, đóng ở Thất Sơn. Nhưng không hiểu sao tôi ngần ngại quá. Tôi ngần ngại, có lẽ tại bao năm rồi, chúng mình không có liên lạc với nhau. Tôi ngần ngại vì mặc cảm. Mặc cảm của một kẻ phạm tội, một đứa không ra gì. Một thằng thanh niên đã làm khổ em gái anh, làm khổ Mị, làm Mị khổ một đời, làm lỡ dở cả tuổi hoa niên của Mị, làm Mị phải dấn thân vào con đường như ngày nay, anh đã biết. Trách nhiệm đó, dài dòng lắm chúng ta hãy cứ thư thả, khoan hãy đề cập tới, phải không anh. Hãy nói về cái động cơ thúc đẩy tôi, đủ can đảm, đặt bút viết cho anh. Anh muốn biết ngay nguyên nhân đó? Vâng, tôi xin thưa cùng anh hôm nay, sở dĩ tôi có thể viết những dòng chữ này cho anh.Vì tôi sắp rời bỏ nơi đây. Tôi sắp lìa xa thành phố này, vĩnh viễn, hẳn anh cũng biết, từ hơn một năm nay, tôi đã không còn là tôi nữa. Tôi là một tên tội phạm một kẻ bị án khuyết tịch, chung thân biệt xứ hiện còn tại đào. Nghĩa là bất cứ một giờ phút nào, nếu bị bắt. Tôi sẽ bị đưa đi Côn Sơn ngay lập tức, nói là sắp lìa bỏ quê hương này, thành phố này, không phải vì tôi đã hết yêu thương nó, thù hận nó, oán cừu nó, không, không phải thế, mà trái lại anh ạ, hoàn toàn trái ngược, (dù từ ngày sinh ra rồi lớn lên, cho đến khi bị án, tôi vẫn chưa hề được hưởng một ân huệ, một may mắn, một ơn trên mưa móc nào của đám đông, của xã hội). Thế nhưng tôi vẫn phải đi. Tôi phải xa lìa nó. Vì ở đây không ai cho phép tôi được sống, được làm người. Luật pháp đã không còn công nhận tôi là một công dân. Làm công dân một nước, như nước này, quả là, chẳng có chút gì đáng để vinh hạnh hết. Tôi có phản bội tổ quốc, phản bội quê hương khi nói vậy không anh?. Tôi là một can phạm mang án chung thân mà anh. Và, bây giờ, tôi lập lại, lúc chẳng còn bao ngày nữa, tôi sẽ đi, tôi sẽ trốn đi thì đúng hơn, tôi muốn viết cho anh một lá thư dài. Lá thư đầu tiên và tôi cho rằng, có lẽ hay ít ra, tôi cũng mong mỏi như thế, là lá thư cuối cùng, cho anh. Phải nói ngay để anh rõ, với tôi, trong trường hợp nào, thì tôi cũng sẽ trở về, phải trở về chứ. Trở về để chết trên mảnh đất này, trong thành phố này. Nơi tôi đã lớn lên. Nơi tình cảm tôi được vun xới những lát cuốc đầu tiên. Nơi mà tôi vẫn hằng coi như bảo tàng viện ghi lại đầy đủ dấu vết, kỷ niệm từ thuở thiếu thời của tôi. Tôi phải được nhắm mắt trong ngôi Bảo Tàng Viện đó anh. Anh tin đi. Tôi sẽ về mà. Dù cho bây giờ tôi sắp đi. Tôi sắp bỏ đi. Vâng, anh cứ từ từ, anh T. Tôi sẽ nói cho anh biết tại sao tôi có thể trốn khỏi xứ sở này, khi tôi là một can phạm đang bị truy nã. Nguyên cách đây năm, sáu tháng tôi có gặp một gã thủy thủ già trong một đêm chờ sáng ở bến tàu. Y say khướt vì là đêm đầu tiên trên đất liền, sau mấy tháng lênh đênh ngoài biển cả. Còn tôi một tên tội phạm lang thang, lén lút tìm kiếm chút tự do đã cầm bằng mất đi vĩnh viễn. Hắn và tôi cùng ngồi trên một băng đá, dưới một vòm cây leo ở ngay trước bến bốc hàng. Hắn kể cho tôi nghe về đời hắn. Về vợ hắn, con hắn, về quê hắn, về những người còn sót lại ở miền Bắc sau di cư 1954. Nghe hắn kể loanh quanh một hồi sau đó, tôi nhận ra rằng trước khi hắn bỏ xứ đi, hắn là một tá điền làm ruộng cấy rẽ cho gia đình tôi. Tôi kể sơ qua hắn nghe về thân thế của tôi, hắn nhận ra ngay và ôm lấy tôi khóc ngất, chờ cho cơn xúc động của hắn nguôi đi, tôi mới nói thật tình trạng của mình. Tưởng nghe rõ hoàn cảnh tôi, hắn sẽ sợ hãi, sẽ lảng xa tôi, không ngờ, anh biết không anh T. Hắn tỏ ra ái ngại cho tôi. Hắn lại khóc. Hắn bảo tội nghiệp cậu, ngày xưa ông nhà đối với chúng tôi rất tốt, bà nhà cũng vậy tuy đôi khi có nhiều lời nhưng bao giờ thì cuối cùng bà nhà cũng xí xóa cho chúng tôi những phần lúa nộp thiếu. Vào những vụ mất mùa, ông nhà còn bảo bà nhà cho chúng tôi mượn vốn mà không lấy lời nữa. Tội nghiệp, ông bà ăn ở nhân đức như vậy mà không hiểu sao, cậu lại ra nông nỗi này. Hắn nói một thôi, xong hứa sẽ tìm cách đưa tôi đi trong chuyến tàu cặp bến lần sau.

Tôi không còn quá nhỏ và lòng ngây thơ tin tưởng nơi lời hứa hẹn của gã. Cho nên được lời hứa hẹn tôi vẫn không một mảy may hy vọng mình sẽ thoát được cảnh này, dẫu vậy đến ngày hẹn, anh biết không anh T, tôi vẫn tìm cách ra bến. Có lẽ phúc đức nhà tôi hãy còn được chút ít, gã thủy thủ già đã đứng sẵn ở điểm hẹn. Hắn lôi tôi vào quán rượu gần đó, ép tôi uống một trận say mèm và hắn cho tôi biết kế hoạch giúp tôi trốn đi đã được chuẩn bị chu đáo. Tôi chỉ còn có mỗi một việc là cố gắng giữ mình cho đến ngày tàu nhổ neo mà thôi. Chiếc tàu buôn đó, hiện đang bỏ neo trong hải phận mình. Nhưng vì lý do an ninh của chính tôi, cũng như của ân nhân tôi, tôi không thể tiết lộ với anh, tên chiếc tàu đó, kể cả ngày giờ ra khơi của nó. Anh chỉ nên biết mỗi một điều là khi lá thư này, đến tay anh, tôi đã rời khỏi nơi đây lâu rồi. Mong anh thông cảm cho hoàn cảnh khốn khổ của tôi, và đừng nghĩ lầm rằng tôi đã không đủ lòng tin nơi anh. Không. Không đâu, anh T, ạ. Phải không anh, có tin anh, có còn quý trọng anh, tôi mới chọn anh, để gửi đến những tiếng nói cuối cùng của một kẻ sắp biệt xứ, của một kẻ sắp rởi bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình, để bắt đầu một cuộc đời tha phương cầu thực. Tôi mong anh hiểu thấu tâm trạng tôi, lúc này, thật vô cùng đau đớn, vô cùng tan nát, tâm trạng tôi một kẻ mang án chung thân, biệt xứ. Tâm trạng tôi, một kẻ chưa chớm ba mươi mà ngọn lửa đời mình đã tắt. Tâm trạng tôi một kẻ đào tẩu, một kẻ bị bức bách phải ra đi. Ra đi, với một cuộc tình lỡ, một mẹ già bỏ lại, một hàm oan khôn giải, một nửa đời đã chết. Nhiều khi tôi nghĩ tôi được sinh ra để sống, đời của một con, một con giun đất. Không có mắt để nhìn, không có chân để đi, không có miệng để than vãn, kêu oan. Thế giới của tôi là thế giới ẩn dưới những lớp đất dày đặc. Thế giới của những đêm đen, trùng trùng chất chất. Thế giới của tôi là thế giới tận cùng của dở dang lớp lớp. Vạn nhất, nếu một ngày nào anh có được tin tôi yêu một người con gái nào đó, thì anh có thể tin chắc một điều là người đó nếu không hơn Mị, ít ra cũng ngang bằng Mị, nhất là về phương diện đức hạnh. Nói xa xôi vậy chớ thời buổi này quả khó kiếm một người như Mị. Anh có thể hãnh diện rằng đã có một người em gái như vậy. Anh T.

Tôi dài dòng quá phải không anh. Thôi mà. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, anh chìu tôi một chút. Anh thương tôi một chút. Kẻ nào lúc sắp ra đi cũng thường đầy tâm sự cần giải tỏ. Tôi muốn được nhờ những trang giấy này, nói với anh, một lần cho hết, cho trọn, tất cả những bí ẩn những khúc mắc, những quanh co nào mà tôi còn dấu anh.

Mị còn chưa kể cho anh nghe, vì không biết hay không muốn. Hình như vừa có một câu hỏi nào lóe lên trong óc tôi mà chưa kịp ghi thì nó đã khuất rồi. Cái gì? Điều gì? Vâng, anh cho tôi năm phút, dăm phút thôi, tôi sẽ nhớ lại. Nhớ lại ngay bây giờ. Ồ, may quá tôi nhớ ra rồi. Tôi muốn hỏi anh, có phải anh đã có gia đình? Có phải chị đã có một cháu, trai hay gái tôi không rõ lắm, đúng vậy hả? Điều ấy nào có ăn nhập gì đến chuyện tôi! Không đâu. Anh T, anh đừng nôn nóng, anh cứ từ từ. Gì cũng thế, phải có đầu đuôi chớ hả anh.Vâng, nói có liên hệ đến tôi thì không đúng lắm. Nhưng nó liên hệ tới Mị, đó cũng là một trong những nguyên nhân, nguyên nhân gần thôi anh, đến hiện tại của Mị.

Anh T.

Trước khi lấy vợ chắc anh không thể phủ nhận là Mị vẫn hằng cho anh là người duy nhất, trong ngôi nhà đó, hiểu được tâm sự của Mị. Hay anh là người mà Mị đã không dấu diếm một chuyện cỏn con nào, trong đời sống tinh thần của Mị, Mị đã gần anh, Mị đã tin anh, hơn là Mị gần với bác gái, Mị cũng đã lo lắng cho anh, săn sóc anh hơn cả bác gái săn sóc và lo lắng cho anh, (trong xấp thư của Mị gửi cho, mà tôi còn giữ được, hầu như không lá thư nào, Mị quên nhắc đến anh, với những lo lắng, những hoảng hốt những điềm, mộng mỗi khi chậm có tin anh, kể từ ngày anh ra trường và đổi đi sư đoàn, đóng ở Quảng Ngãi). Điều đó, theo tôi, thật dễ hiểu, bởi Mị không có bạn bè thân thiết. Mị không có ai ngoài H.H, tuy là bạn gái nhưng lại không thể giúp gì được Mị những hoang mang giao động của tình cảm, của thời dậy thì con gái, H, lại ở xa có người yêu sớm. H, ở một hoàn cảnh hoàn toàn khác biệt với Mị, H không thể hiểu Mị được. Thế giới của Mị, không có gì khác hơn một tủ đồ chơi, bạn bè của Mị không ai khác hơn sách vở, bếp núc và may vá, Bác trai thì quá nghiêm khắc. Nghiêm khắc hay lạnh lùng thu hút đời mình vào một góc lặng câm của những thất bại, những cay đắng thời còn trẻ. Bác gái may mắn hơn, nhưng thời giờ bác gái còn phải dành cho công việc buôn bán tần tảo, nuôi gia đình, nuôi anh, nuôi Mị. Do đấy, cuối cùng Mị chỉ còn anh. Mị không thể chọn ai khác hơn để tâm sự, để nương tựa, để hỏi han, để trông đợi một lời an ủi, một ánh mắt vuốt ve, che chở, rồi chuyện giữa tôi và Mị xẩy ra. Mị trở về với cõi trú ẩn đầu tiên của mình, thì cõi trú ẩn đó, đã bị phá vỡ bởi sự có mặt của một người con gái khác, cùng trong lứa tuổi với Mị, nhưng Mị phải gọi bằng chị. Mị phải kính trọng, phải giữ gìn ý tứ với người con gái đó. Bởi người con gái đó, là vợ anh. Sự có mặt của người con gái đó, trong ngôi nhà muôn năm cánh cửa sắt nặng nề khép kín, đã như một cơn địa chấn động, làm sụp đổ hang động tuổi thơ của Mị. Điểm tựa cuối cùng cho một quay về ẩn náu sau lần hồn đầy thương tích, Mị, trong đau đớn tủi nhục quay về đó, đã chạm phải một thực tại phũ phàng, phũ phàng ngoài dự tưởng của Mị, đó là sự anh đã thuộc về người khác, đó là sự anh đã thay đổi tính nết, thay đổi đời sống. Dĩ nhiên không ai có thể trách cứ ai, trong trường hợp đó, kể cả Mị. Nhưng muốn hay không thì thực tại này, đã như một lát dao oan nghiệt, một lần nữa, chém xả xuống thân phận trốn chạy của Mị. Và, một khi, anh nhìn thấy, tấn kịch ở màn kết, thảm thiết đó, anh sẽ hiểu, và có thể anh sẽ thương Mị hơn, tội nghiệp cho Mị hơn là mắng, giận Mị, khi Mị đã chọn con đường diệt ngã, diệt dục. Tôi cho rằng khi nghĩ tới biện pháp giết chết cái tôi, chính là để duy trì, để cưng dưỡng cái tôi thánh thần, cái tôi chói lòa, một hy sinh cao cả. Tôi không thể mường tưởng được Mị, sau vòm cửa tu viện, ra làm sao, như thế nào, vì từ ngày Mị tự nguyện mặc cho mình một tấm áo khác hơn, những tấm áo mà Mị đã mặc trong mắt anh, trong mắt tôi, những tấm áo xanh, những manh áo trắng, đã vĩnh viễn biến thành những dợn mây, bay mãi trong tâm hồn tôi, trong đời sống tôi. Tôi biết nó sẽ trùm kín suốt một thân kiếp tôi. Nó là mãi mãi là những bóng mát giúp tôi còn có thể lê bước đi tới, ngửa mặt đi tới, cắm đầu đi tới, nhẫn nhục đeo đẳng sự sống. Tôi sống bằng ảo tưởng Mị luôn ở cạnh tôi. Anh lắc đầu không hiểu? Phải anh không thể hiểu được vì đó là ý nghĩ của một người điên, một kẻ mất trí.

Anh T,

Anh đừng vội nghĩ rằng lá thư này hay những dòng chữ sau đây, nhằm mục đích biện minh cho một quan điểm, một khía cạnh nào đó của tôi hay Mị, trong cuộc tình chát đắng này, trong sự sống ngặt nghèo này. Đừng, đừng vội nghĩ vậy anh ạ, anh nghĩ vậy là nghĩ đẹp cho tôi quá đấy. Chính ngay ở những dòng chữ ấy cũng không nốt, tôi vẫn quan niệm rằng, mỗi kẻ có một đời sống riêng để tiêu xài, để phung phí, để vun bồi, để nấp đậy để lấp liếm. Trong trường hợp nào với tương quan nào, chúng ta cũng chỉ có thể tiếp cận nhau, chứ không hề nhập lẫn làm một. Cái nhập lẫn, cái làm một, viết hoa ở đây, là khả năng là đặc tính, là quyền uy riêng của tình yêu đôi lứa,

Anh T,

Ý tôi muốn nói, những gì tôi sẽ viết tiếp sau đây, chọn anh để gửi tới, chọn anh để làm người đọc duy nhất không ngoài mục đích mong anh hiểu Mị hơn, hiểu tôi hơn, hay nói một cách khác, giảm bớt những ngộ nhận của anh về Mị, về tôi, vạn nhất, nếu anh có dịp đề cập chuyện của tôi với Mị, anh có thể để hai bác thấy rõ hơn mặt thực của vấn đề, trung tâm của cơn bão, hầu từ đó, ở vị trí của mỗi người, chúng ta sẽ nhìn thấy trách nhiệm của mình, giới hạn của mình. Hầu từ đó, mỗi kẻ, thấy đâu là sự quá trớn, là lầm lỡ, là… tôi muốn nói, một điều gì đó, mà diễn tả không được. Tôi muốn dùng hình ảnh của một tử thi, một xác chết, bị đầu độc bởi những phân lượng thuốc độc nhiều ít do chính những người thân yêu chung quanh, đã cậy miệng đổ cho nạn nhân uống. Tôi muốn nói tới những giọt cường toan mà hai bác, mà anh, mà Mị, mà tôi, mà đám đông, mà hoàn cảnh, đã lần lượt hợp nhau, nhỏ lần từng giọt, lên chính thịt da nhau.

Anh T.

Một lần nữa, tôi lập lại, chẳng còn mấy ngày tôi sẽ rời bỏ thành phố này, quê hương này, như Mị đã rời bỏ ngôi nhà đó, đã dìm ngộp đời mình trong đời sống đó. Nhưng anh tin không? Một ngày kia tôi sẽ trở về. Chúng tôi sẽ về, sẽ trở về anh ạ. Phải về chứ. Về để nhìn thấy mặt nhau trước khi vĩnh viễn nhắm mắt. Về để thấy được một lần đời mình trong mơ ước, trong tuyệt vọng.

Anh bực mình về sự lảm nhảm quá nhiều của tôi rồi đó, phải không anh T. Anh cứ nói thật đi. Vâng, thì thôi, tôi bắt đầu nha, bắt đầu từ đâu nhỉ? Anh cho tôi tùy ý à. Vâng, thưa tôi xin bắt đầu, bắt đầu từ một đoạn khởi nào đó, để từ đó, anh có thể có được một cái nhìn thấu suốt hơn về cảnh tình tôi, về chuyện của hai đứa tôi.

Tôi chỉ xin anh, xin anh một điều duy nhất, là khi đọc xong, anh hãy vứt, hãy xé hay hãy đốt đi, lá thư này. Tôi không muốn để nó, lọt vào tay bất cứ một người nào khác hơn anh. Cũng như, những lá thư của Mị, viết cho tôi, tôi vẫn còn giữ đủ bên mình đây anh. Tôi sẽ đem nó theo trong suốt một tha phương cầu thực, tôi sẽ mang nó, bên tôi trong những ngày tàn tạ của đời tôi trên đất khách quê người. Nếu tôi không trở về được, tôi sẽ chết cùng với nó, một trong những lá thư ấy, sẽ là khăn phủ mặt tôi. Anh hiểu tôi muốn nói gì chứ anh T.

Trước khi dừng bút, tôi xin kính chúc anh, chị, và hai bác ở lại quê nhà được mọi may mắn và hạnh phúc. Nếu có phút nào, anh nghĩ đến tôi, anh còn có dành cho tôi chút tình thương nào đó, xin anh hãy nghĩ tới Mị, xin anh hãy dành cho Mị, và nếu có dịp, vì tình cũ, vì những kỷ niệm, những cảm tình thuở ban đầu mà chúng ta đã có với nhau, tôi xin anh, hãy nói với Mị, một câu, ngắn ngủi, thôi, rằng thằng Chất này lúc nào cũng nghĩ đến Mị, đó là một điều hiển nhiên. Hiển nhiên như mặt trời mỗi sáng ánh nắng như bóng đêm, như hơi thở, như mạch máu, như trái tim trong lồng ngực tôi, hôm nay còn đập.

Kính chào anh, một lần cuối cùng.

Can phạm chung thân biệt xứ

NGUYỄN VĂN CHẤT

25-3

Danh sách chương


Sách tương tự